PHÉP I-PHÉP LUẬT THỜ VUA CHA CAO MINH THƯỢNG ĐẾ
LẬP BÀN THỜ
-Trên
cao có dán hoặc dựng Thiên phù
-Dưới có 3 ngọn nến ( Lập hoặc không lập bát hương đều được-hoặc
dùng trụ cắm hương)
Thiên
phù màu đỏ-nền trắng
Thiên phù màu đỏ-nền trắng
(Thờ 30-41cm-giấy
A3 hoặc A4)
I-THIÊN PHÙ THÁNH GIÁ:
Thánh
Giá còn gọi là Thiên Phù Thánh Giá, hay Thánh
Giá 7 Ngôi sao.
THÁNH
GIÁ THIÊN ĐẠO-GỌI LÀ THÁNH GIÁ CỦA NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ-CÒN GỌI LÀ THÁNH GIÁ 7
NGÔI SAO-THIÊN ĐẠO LÀ ĐẠO TRỜI GIÁNG THẾ CƠ ĐỐC THÁNH ĐỨC PHỤC LÂM LẬP NƯỚC
TRỜI TẠI THẾ NGÀN NĂM BÌNH AN (THỜI THÁNH ĐỨC).
THIÊN PHÙ còn gọi là THIÊN LINH BẮC ĐẨU TINH PHÙ; tượng
trưng cho Thượng đế-và cũng là đại biểu hợp nhất cho Thiên Đạo-3 ngôi chính ( Ba vòng tròn:
Cha-Mẹ-Các Thần thánh-và cũng là Thần
bản mệnh của mỗi người chúng ta, nên là biểu tượng linh thiêng).
Thánh Giá 7 Ngôi sao là một cây
hình chữ thập, có ba vòng tròn đồng tâm.
-Vòng
tròn to: ở giữa tượng trưng cho Vũ trụ-
Đạo-Đại Đồng-Đại Nguyên năng-Ngôi Vua Cha Thượng đế.
-Vòng
bên trái: Tượng trưng cho Tòa thánh Tiên
Thiên (Mẫu Vương quản-là Mẹ Tối cao của Vũ trụ là Ngôi Thái Cực âm).
-Vòng
bên phải: Tượng trưng cho Tòa Thánh Hậu
Thiên (Đức Di Lặc Vương Phật quản-Tổng quản các thần thánh tiên phật và các cõi
Hạ Giới). Có thể gọi Tòa Hậu Thiên là Thầy-các thần thánh.
- 7 sao ở dưới: -Là 7 Sao Bắc Đẩu
( Tử vi Đế tinh). 7 sao hóa thân xuống thành các Luân xa của con người. 7 sao
Bắc Đẩu này gọi là Thần bản mệnh của cá nhân con người. 7 sao này là hợp nhất và là âm tính.
Con người có 7 sao Luân xa -vậy
Thiên Phù tượng trưng cho Thượng đế, cũng là tượng trưng cho bản mệnh con người
(Tiểu Vũ trụ) -Đây là phép thờ và phát hiện thần học tuyệt diệu nhất của Thiên
Đạo..
-Chúng ta Thờ độc thần là Vua Cha, còn các
Tòa Thánh, các con khấn tấu hay không thì tùy tâm.
-Thờ Thượng đế bằng Thánh Giá 7 Ngôi sao thay cho ảnh Chúa Giê-su, thay các không có hình tượng của ALah, thay
tượng không rõ hình tướng của Ngọc Hoàng Thượng đế, hoặc thờ Trời chung chung;
mà thờ Thánh Giá 7 Ngôi sao có
biểu tượng 7 ngôi sao, ba Tòa Thánh, là có thể hiểu đó là biểu tượng của Thượng
đế, Thiên đình; hiểu biết về Cha Mẹ Trời và chính mình khi linh hồn mình từ lâu đã là thần thánh được đầu thai xuống trần
học hỏi và tiến hóa giúp đỡ chúng sinh hoặc làm nhiệm vụ.
-Thiên Phù có thể dựng trên nóc tất cả đình đền chùa
miếu và nhà thờ, thánh thất, nhà thờ dòng họ.
-Thiên Phù là vật tối linh, được truyền phép linh
thiêng trước khi sử dụng.
-Có thể dùng đeo ở ngực làm Linh Phù. Đeo ở ngực cao
9, hoặc 18 cm.
-Cấm in trên trang phục. Màu nền
trắng, tất cả các phần nổi màu đỏ. Màu đỏ hồng ngọc, không đỏ đục hoặc đỏ chói,
đỏ tía. Chú ý là các phần màu đỏ thì đúc nổi lên cho đẹp.
CÁCH
KHẤN NIỆM
-Đeo
Thiên Phù, thờ Cha bằng Thiên Phù, học thuộc bài thơ Kính Ơn Cha, để đọc trong
những lúc tu luyện, gặp việc cần xin khấn, ngày lễ tết, sóc vọng…
-Khi
làm Lễ trong tất cả các Lễ, đều đọc Sớ, Tấu xong, thì đọc thuộc các bài Kinh
này.
Kinh
Kính ơn Cha ( Thượng đế)
Trên đỉnh Trời cao
chót vót!
Toà Bạch Ngọc Đài,
Cha ngự Thiên Linh
Cha sinh muôn loài,
Cha của muôn sinh
Hạnh phúc nào bằng
Cha trao cho sự sống
Cha là Trời mênh mông lồng lộng
Cha là dòng máu hồng
chảy mãi trong tim
Cha là ánh sáng ngọt ngào rất đỗi dịu êm
Đưa chúng con vào
cuộc trường sinh bất tử
Cha là ngọn đèn muôn
năm soi tỏ
Vạn kiếp chúng con đi
như gió bên Người
Người là dòng sông
nguyên khí sữa nuôi
Mật ngọt và đắng cay,
Cha chở che nhẫn chịu
Võng Ngân Hà, Cha đan
cho con, Mẹ địu
Trên vai Người lịch
sử nối vạn triệu năm
Nụ hoa đời cho Hạ thế
chỉ chăm
Công tưới ấy, Thiện
Mỹ này Cha dạy
Trong Vũ trụ
ngọn Nguyên Đăng bỏng cháy
Gieo bình minh đến
khắp thế gian
Tạo giàu sang, nâng
đỡ kẻ cơ hàn
Nuôi văn minh, sửa
sang đời lạc hậu
Cha truyền cho ngọn
nguồn tranh đấu
Sức sống vươn lên
chân chính của muôn loài
Cha chở che, đùm bọc
thủa hoài thai
Gieo mầm sống cho vạn
đời nhân thế
Công ơn ấy làm sao đo
đếm xuể
Khi sinh linh vạn
giới bởi tay Người!
Ôm trọn vòng tay,
Người-Vũ trụ, Người ơi!
Con -hạt cát trong
tay Cha vĩ đại
Con xin dâng lên Đức
Cha hiền mãi mãi
Linh hồn con-giọt
ngọc của Cha
Tâm hồn con là một
bông hoa
Dâng hương ngát lên
vườn Thượng giới
Ánh mắt con như vạn
lời hướng tới
Dâng lên Cha lời hát
ngọt ngào
Đây hồn con như khí
thanh tao
Rửa hết bụi hầu bên
Cha ngự
Bao vật phẩm của thế
gian các thứ
Con dâng lành cung
chúc Cha thương
Và Cha ơi, trên mọi
nẻo đường
Con cầu mong Cha
thường nhắc việc
Giáng Thiên linh cho
tỏ tường các kiếp
Phù nhân gian, phù
thiện phù sinh
Diệt ác gian trọc hết
lọc thanh
Cho thêm sức an lành
cuộc sống
Đức phủ trùm là Trời
biển rộng
Thượng Đế Cao Minh
con xin kính thương Người!
Kinh Kính
ơn Mẹ ( Vương Mẫu Tối cao)
Nơi Chính giác Thượng Thiên cõi Mẫu
Đất thiên đường cực lạc Thiên Linh
Mẹ ban quyền giáo hoá chúng sinh
Quản nhân mạng thọ toàn duyên nghiệp
Mẹ sinh ra chúng con các kiếp
Cho
nhân luân, số phận làm người
Là
cội nguồn sự sống khắp nơi
Ân
quả ấy tạo nên thời Thánh Đức
Kim
Tự tháp ngự tình chân thật
Tâm
giáng sinh truyền giáo đời này
Đem
giáo lý phổ khắp tới nay
Gieo
đức thiện ngàn năm ghi tạc!
Lòng
Mẹ bao la như muôn ngọn thác
Tưới
từ bi cứu nạn chúng sinh
Rửa
chuộc khổ đau, ghánh tội nhân luân
Dạy
dỗ bảo ban cho loài người thế tục
Xin
dâng lên Mẹ vạn lời con chúc
Ước
khổ đau vơi bớt Mẹ ơi
Mong
cho Mẹ được nở nụ cười
Đây
Thiên Đạo chúng con vào Thánh Đức
Đại
Đồng này dâng lên Người thiện ngọc
Là
hoa đời thơm cực lạc muôn năm
-Cầu,
Khấn xin việc gì đó, nhưng phải thật tâm trong sáng, chân thành, cấm cầu các
việc ác, tranh tham danh lợi…
-Đọc
xong thì hướng về phương Bắc quì lạy 9
lạy: Quì, chống gối, cúi đầu, rập đầu xuống sát đất, hai tay đặt song song,
úp xuống đất, để trước gối. Mỗi lần ngẩng lên, lại đặt tay vào ngực, như lễ
trên, rồi lại rập đầu.
QUÌ 9 LẠY:
Khi làm lễ trước bàn thờ, quì xuống, thẳng người,
tay phải duỗi thẳng, để trên trán, tay trái để ngang trước ngực trái tim, sau
đó cúi lạy sát đất, đầu rập xuống đất, hai tay úp xuống đất, song song nhau
trước mặt ngang mặt, và rập đầu lạy 9 lạy.
Ý nghĩa như sau: Tượng trưng cho sự kính trọng 9
cảnh giới Thiên linh. Số 9 còn tượng trưng cho Trời, tượng trưng cho 9 phương
Trời. Số 9 là số cao nhất trong dãy số tự nhiên, là ngôi Cửu trùng-Thượng
đế-tượng trưng cho sự bất tử của linh hồn, vũ trụ, Thượng đế. Số 9 còn là 9
hành tinh trong hệ mặt trời, 9 sao Bắc đẩu ( 7 vị Đại tinh quân cổ Phật, 2 vị
Bồ tát). Đại Cảnh giới thứ 9 tính theo phân cấp mật độ của Thiên Đạo là các
Thiên Đường.
LỄ TẾ VÀ LỄ
KÍNH THIÊN ĐÌNH
*Một năm làm 4 Lễ Tế Trời ( Thượng đế): Các ngày chuyển tiết, sang mùa quan trọng (chuyển nguyên khí vũ trụ), gồm: Ngày Xuân Phân, Hạ Chí, Thu Phân, Đông Chí-phải làm lễ tế Vua Cha. Các
ngày này, nguyên khí tụ lại Trung cung. Cúng đơn giản, lễ chay nếu có tùy tâm,
thiền lấy năng lượng thông linh với Thiên đình.
*Một năm làm 3 lễ
Kính: Đọc
Kinh và Thiền, cầu nguyện cho Nhân loại bình an, đại đồng. Có thể cúng lễ. Sau
có thể làm Lễ lớn.
-Kính ơn Cha--Thượng đế vào ngày 9/1 âm lịch.
-Lễ kính ơn Thần thánh-hay gọi là Thần Chủ
Mệnh: Ngày 9/8 âm lịch. Tổ chức
Lễ này kính ơn Thần Chủ Mệnh: làm 3
ngày, từ ngày mùng 9 đến 11 tháng 8 âm lịch. Ba ngày này, làm lễ cúng Thượng đế
cùng Mẫu Vương Tối cao trước, sau đó kính ơn đức Thần Chủ Mệnh- các Thần
Thánh.
-Lễ Kính ơn Mẹ ( Mẫu Vương Tiên Tối cao)-Ngày
9/12
âm lịch.
Phương Đông-phương Tây đều
cùng làm lễ như trên.
…………………………………………………………………………………….
SỰ HỢP NHẤT THẦN
HỌC-TÂM LINH-TÍN NGƯỠNG-TÔN GIÁO TOÀN NHÂN LOẠI VÀO TRONG THIÊN ĐẠO-GIA NHẬP
THIÊN ĐẠO-HỢP TRONG THIÊN ĐẠO (ĐẠO TRỜI-TÔN GIÁO CUỐI CÙNG)-TRONG TƯƠNG LAI
THÁNH ĐỨC=BIỂU TƯỢNG THIÊN PHÙ KÍNH THỜ THƯỢNG ĐẾ.
ĐÂY LÀ LUẬT LỆNH MỚI CỦA
THƯỢNG ĐẾ:
* * *
TÌM HIỂU VỀ CÁC SAO BẮC ĐẨU THẤT TINH VÀ SỰ HỢP
NHẤT THẦN HỌC-TÔN GIÁO CỦA THIÊN PHÙ THIÊN ĐẠO
SAO BẮC ĐẨU-7 trung tâm thần lực-năng lượng
Vũ Trụ quyết định mọi số mệnh muôn vật trong vũ trụ.
Gồm: 7 vị Đại tinh quân và hai
vị tinh quân phù tá.
-Đây
cũng là các chính tinh trong môn Tử vi-là các sao bản
mệnh.
Các
pháp môn, tôn giáo, phong thủy khác nhau trên thế giới, có cách gọi tên 9 vị
Bắc Đẩu này khác nhau, nhưng đều rất kính trọng, thống nhất, có sự ảnh hưởng to
lớn mọi mặt trong tín ngưỡng, Đạo giáo, phong thủy Huyền không phi tinh, Độn
giáp, Thái ất, Tử vi, thước Lỗ Ban…
PHẬT GIÁO
PHẬT
THUYẾT: THIÊN TRUNG BẮC ĐẨU CỔ PHẬT TIÊU TAI DIÊN THỌ.
ÔNG A NAN KỂ: Đúng như thế này: - Chính tôi được nghe , một thời Phật ở Tĩnh Cư Thiên Cung, tập hợp các chư Thiên: Phạm Vương Đế Thích, Bát Bộ Hộ Tứ chúng đàm luận Pháp yếu.
Khi ấy Bồ tát Văn Thù Sư Lợi Từ đứng dậy, tiến đến trước Đức Phật mà bạch Phật rằng:-Thưa Đức Thế tôn, con thấy hầu hết nhân dân sang hèn, côn trùng xuẩn động, nằm trong Thái, Thiếu, Âm, Dương, Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy Hỏa, Thổ, thảy đều do nơi Bắc Đẩu Thất Nguyên Tinh làm chủ tể. Vì cớ gì mà bảy sao bắc Đẩu giữa Trời có uy quyền, uy đức tối tôn như vậy?
Cúi xin Thế Tôn vì chúng tuyên thuyết, tất cả nhận Thiền và đại chúng đây thẩy đều quy hưởng.
Khi ấy Phật bảo Bồ tát Văn Thù và đại chúng rằng:
-Quý hóa lắm thay, ta sẽ vì ông và chúng sinh ở đời Vị lai tuyên thuyết duyên do để cho đời sau đều hiểu biết công đức lớn lao của bảy vì sao ấy, phúc thí quyền sinh, ân thí muôn cõi. Ông Văn Thù này: Khắp cõi tể quan, cư sĩ, tăng ni, đạo tục, dù sang dù hèn, cũng chỉ có 7 vị Bắc Đẩu Tinh Quân làm chủ bản mệnh. Thiện nam hay thiện nữ, cứ hàng năm ngày 8 tháng 1, ngày 7 tháng 7, ngày 9 tháng 9, và ngày sinh của mình, mặc y phục sạch sẽ, đối trước Tinh Tượng, chí tâm xưng 7 danh hiệu Cổ Phật và hai Bồ tát, tùy tâm cầu nguyện ...Có thể thắp 7 ngọn nến bày theo Tinh vị, rồi nửa đêm dâng cúng các thứ hương hoa, tinh thủy, dốc lòng cầu khẩn, ắt được như ý.
7 Vị gồm:
ÔNG A NAN KỂ: Đúng như thế này: - Chính tôi được nghe , một thời Phật ở Tĩnh Cư Thiên Cung, tập hợp các chư Thiên: Phạm Vương Đế Thích, Bát Bộ Hộ Tứ chúng đàm luận Pháp yếu.
Khi ấy Bồ tát Văn Thù Sư Lợi Từ đứng dậy, tiến đến trước Đức Phật mà bạch Phật rằng:-Thưa Đức Thế tôn, con thấy hầu hết nhân dân sang hèn, côn trùng xuẩn động, nằm trong Thái, Thiếu, Âm, Dương, Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy Hỏa, Thổ, thảy đều do nơi Bắc Đẩu Thất Nguyên Tinh làm chủ tể. Vì cớ gì mà bảy sao bắc Đẩu giữa Trời có uy quyền, uy đức tối tôn như vậy?
Cúi xin Thế Tôn vì chúng tuyên thuyết, tất cả nhận Thiền và đại chúng đây thẩy đều quy hưởng.
Khi ấy Phật bảo Bồ tát Văn Thù và đại chúng rằng:
-Quý hóa lắm thay, ta sẽ vì ông và chúng sinh ở đời Vị lai tuyên thuyết duyên do để cho đời sau đều hiểu biết công đức lớn lao của bảy vì sao ấy, phúc thí quyền sinh, ân thí muôn cõi. Ông Văn Thù này: Khắp cõi tể quan, cư sĩ, tăng ni, đạo tục, dù sang dù hèn, cũng chỉ có 7 vị Bắc Đẩu Tinh Quân làm chủ bản mệnh. Thiện nam hay thiện nữ, cứ hàng năm ngày 8 tháng 1, ngày 7 tháng 7, ngày 9 tháng 9, và ngày sinh của mình, mặc y phục sạch sẽ, đối trước Tinh Tượng, chí tâm xưng 7 danh hiệu Cổ Phật và hai Bồ tát, tùy tâm cầu nguyện ...Có thể thắp 7 ngọn nến bày theo Tinh vị, rồi nửa đêm dâng cúng các thứ hương hoa, tinh thủy, dốc lòng cầu khẩn, ắt được như ý.
7 Vị gồm:
1-Ngài Bắc Đẩu: Đại
Khôi Dương Minh Tham Lang Thái Tinh quân-cổ phật thế giới Tối Thắng Đông
Phương, hiệu: Vận Ý Thông Chúng Như Lai.
2-Ngài Bắc Đẩu: Đại Thước Âm Tinh Cự Môn
Nguyên Tinh quân-cố phật thế giới Diệu Bảo Đông Phương, hiêu: Quang Âm Tự Tại
Như Lai.
3-Ngài Bắc Đẩu: Đại Quyền Chân Nhân Lộc Tồn
Trinh Tinh quân-cố phật thế giới Viên Châu, hiệu: Kim Sắc Thành Tựu Như Lai.
4-Ngài Bắc Đẩu: Đại Hành Tiên Minh Văn Khúc
Tinh Quân-cổ phật thế giới Vô Ưu Đông Phương, hiệu: Tối Thắng Cát Tường Như
Lai.
5-Ngài
Bắc Đẩu: Đại Tất Đan Nguyên Liêm Trinhh Cường Tinh quân-cố phật thế giới Tĩnh
Trụ Đông Phương, hiệu: Quảng Đạt Trí Biện Như Lai.
6-Ngài Bắc Đẩu: Bắc Cực Vũ Khúc Kỷ Tinh
Quân-cổ phật thế giới Pháp Ý Đông Phương, hiệu: Pháp Hải Du Hý Như Lai.
7-Ngài Bắc Đẩu: Phiêu Thiên Quan Phá Quân
Tinh quân-cố phật thế giới Mãn Nguyện Đông Phương, hiệu: Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai.
Ngoài ra, còn hai ngài
Bắc Đẩu Bồ Tát:
Ngài Bắc Đẩu: Đông Minh Tả Phù Tinh quân-Bồ
tát thế giới Diệu Hý Tây Phương, hiệu: Hoa Tạng Trang Nghiêm Bồ Tát.
Ngài Bắc Đẩu: Ấn Quan Hữu Bật Tinh quân-Bồ
tát thế giới Diệu Viên Tây Phương, hiệu: An Lạc Tự Tại Bồ Tát.
Rồi
đức Thế tôn đọc câu Thần chú sau: CHÚ SẠCH 3 NGHIỆP: -ÚM SA PHẠ BA PHẠ - TRUẬT
ĐÀ SA PHẠ - ĐẠT MẠ SA PHẠ - BÀ PHẠ TRUẬT ĐỘ HÁM ÚM HÃT NA - ĐÀN NA - CHA CHA ĐẾ - MA HA ĐẾ - SÁT CHA- SÁT CHA ĐẾ - HẠT
BÁT MA DUỆ - SA BÀ HA ( 3 lần)
PHẬT NÓI KINH BẮC ÐẨU
THẤT TINH DIÊN MẠNG
Vị Tăng tên Bà la môn, từ Thiên Trúc
truyền đến đời triều vua Ðường ở Trung Hoa thọ trì.
Sa Môn Thích Viên Ðức dịch thành Việt văn.
“1-Nam
mô Tham Lang Tinh, Thị Ðông phương Tối Thắng Thế Giới, Vận Ý Thông Chứng Như
Lai Phật (1 lạy)
2- Nam mô Cự Môn Tinh, Thị Ðông phương Diệu Bảo Thế Giới, Quán Âm Tự Tại Như Lai Phật. (1 lạy)
3- Nam mô Lộc Tồn Tinh, Thị Ðông phương Viên Mãn Thế Giới, Kim Sắc Thành Tựu Như Lai Phật. (1 lạy)
4- Nam mô Văn Khúc Tinh, Thị Ðông phương Vô Ưu Thế Giới, Tối Thắng Kiết Tường Như Lai Phật. (1 lạy)
5- Nam mô Liêm Trinh Tinh, Thị Ðông phương Tịnh Trụ Thế Giới, Quảng Ðạt Trí Biện Như Lai Phật. (1 lạy)
6- Nam mô Vũ Khúc Tinh, Thị Ðông phương Pháp Ý Thế Giới, Pháp Hải Du Hí Như Lai Phật. (1 lạy)
7- Nam mô Phá Quân Tinh, Thị Ðông phương Lưu Ly Thế Giới, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Phật. (1 lạy)
Hằng năm nếu gặp tai ách lễ kinh này bảy lạy.
2- Nam mô Cự Môn Tinh, Thị Ðông phương Diệu Bảo Thế Giới, Quán Âm Tự Tại Như Lai Phật. (1 lạy)
3- Nam mô Lộc Tồn Tinh, Thị Ðông phương Viên Mãn Thế Giới, Kim Sắc Thành Tựu Như Lai Phật. (1 lạy)
4- Nam mô Văn Khúc Tinh, Thị Ðông phương Vô Ưu Thế Giới, Tối Thắng Kiết Tường Như Lai Phật. (1 lạy)
5- Nam mô Liêm Trinh Tinh, Thị Ðông phương Tịnh Trụ Thế Giới, Quảng Ðạt Trí Biện Như Lai Phật. (1 lạy)
6- Nam mô Vũ Khúc Tinh, Thị Ðông phương Pháp Ý Thế Giới, Pháp Hải Du Hí Như Lai Phật. (1 lạy)
7- Nam mô Phá Quân Tinh, Thị Ðông phương Lưu Ly Thế Giới, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Phật. (1 lạy)
Hằng năm nếu gặp tai ách lễ kinh này bảy lạy.
Khi
bấy giờ Phật bảo Ngài Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: “Kinh này đã nói có đại oai
thần lực” có công năng cứu độ tất cả trọng tội và hay diệt hết thảy nghiệp
chướng của tất cả chúng sanh…………
7 vị cổ Phật-Trung cung là Đại Nhật Như
Lai ( Đại tổ Phật-tức là Thượng đế)
ĐẠO
GIÁO
Bắc Đẩu Thất tinh: Dùng trong bộ Cương đạp
tẩu, cúng sao, văn hóa tâm linh rất rộng rãi…
Thái Thượng Bắc Đẩu bản mệnh diên sinh chân Kinh, viết:
“Bắc đẩu đệ nhất Dương Minh Tham Lang Thái Tinh quân, tý sanh nhân
chúc chi.
Bắc đẩu đệ nhị Âm Tinh Cự Môn Nguyên Tinh quân, sửu hợi sanh nhân chúc chi.
Bắc đẩu đệ tam Chân Nhân Lộc Tồn Trinh Tinh quân, dần tuất sanh nhân chúc chi.
Bắc đẩu đệ tứ Huyền Minh Văn Khúc Nữu Tinh Quân, mão dậu sanh nhân chúc chi.
Bắc đẩu đệ ngũ Đan Nguyên Liêm Trinh Cường Tinh quân, thìn thân sanh nhân chúc chi.
Bắc đẩu đệ lục bắc cực Vũ Khúc Kỷ Tinh Quân, tị mùi sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ thất thiên nhai Quan Phá Quân Tinh quân, ngọ sanh nhân chúc chi.
Bắc đẩu đệ bát Đông minh Ngoại phụ tinh quân.
Bắc đẩu đệ cửu Ấn quang Nội bật tinh quân.
Thượng thai Hư tinh khai đức tinh quân.
Trung thai Lục thuần ti không tinh quân.
Hạ thai Khúc sanh ti lộc tinh quân.
…………………
Bắc đẩu đệ nhị Âm Tinh Cự Môn Nguyên Tinh quân, sửu hợi sanh nhân chúc chi.
Bắc đẩu đệ tam Chân Nhân Lộc Tồn Trinh Tinh quân, dần tuất sanh nhân chúc chi.
Bắc đẩu đệ tứ Huyền Minh Văn Khúc Nữu Tinh Quân, mão dậu sanh nhân chúc chi.
Bắc đẩu đệ ngũ Đan Nguyên Liêm Trinh Cường Tinh quân, thìn thân sanh nhân chúc chi.
Bắc đẩu đệ lục bắc cực Vũ Khúc Kỷ Tinh Quân, tị mùi sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ thất thiên nhai Quan Phá Quân Tinh quân, ngọ sanh nhân chúc chi.
Bắc đẩu đệ bát Đông minh Ngoại phụ tinh quân.
Bắc đẩu đệ cửu Ấn quang Nội bật tinh quân.
Thượng thai Hư tinh khai đức tinh quân.
Trung thai Lục thuần ti không tinh quân.
Hạ thai Khúc sanh ti lộc tinh quân.
…………………
Bắc đẩu thất nguyên quân năng
giải tam tai ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tứ sát ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải ngũ hành ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải lục hại ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thất thương ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải bát nan ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải cửu tinh ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải phu thê ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải nam nữ ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải sanh sản ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải phục liên ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải dịch lệ ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tật bệnh ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tinh tà ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải hổ lang ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải trùng xà ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải kiếp tặc ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải gia bổng ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải hoành tử ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải chú thệ ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thiên la ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải địa cương ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải đao binh ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thủy hỏa ách…..”
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tứ sát ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải ngũ hành ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải lục hại ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thất thương ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải bát nan ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải cửu tinh ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải phu thê ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải nam nữ ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải sanh sản ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải phục liên ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải dịch lệ ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tật bệnh ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tinh tà ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải hổ lang ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải trùng xà ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải kiếp tặc ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải gia bổng ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải hoành tử ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải chú thệ ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thiên la ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải địa cương ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải đao binh ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thủy hỏa ách…..”
THIÊN CHÚA GIÁO
7 vị tinh quân này đã xuất hiện trong linh ảnh (vision) của Thánh Jean.
Sách Khải
huyền 4.5 nói rõ: “có 7 ngọn đèn thắp trước ngài, đó là 7 vị đại thiên thần của Chúa
Trời”.
CÁC MÔN
PHONG THỦY
* Môn Lục Nhâm, vẽ sao Bắc Đẩu trên tinh bàn
để xem thiên văn, địa lý.
Môn
Bát trạch phong thủy
|
Môn Phong thủy Huyền không phi tinh: |
1-Sinh Khí-Tham Lang
2-Ngũ quỉ-Liêm Trinh
3-Lục Sát-Văn Khúc
4-Tứ Lục-Vũ khúc
5-Họa Hại - Lộc tồn
6-Thiên Y - Cự Môn
7- Tuyệt mạng - Phá Quân
-Phục Vị - Phụ-Bật
|
1-Nhất Bạch-Tham Lang
2-Ngũ Hoàng-Liêm Trinh
3-Phúc Đức hay Diên Niên-Vũ khúc
4-Lục Bạch-Văn khúc
5-Tam
Bích-Lộc tồn
6-Nhị Hắc-Cự Môn
7-Thất Xích-Phá Quân
Bát Bạch-Tả phù, Cửu Tử-Hữu Bật
|
THƯỚC LỖ BAN
1-Cung QUÝ NHÂN: NHẤT TÀI MỘC CUỘC. ( TỐT ).Tham
lang tấn hoạnh tài.
2-Cung HIỂM HỌA: NHỊ BÌNH THỔ CUỘC. ( XẤU ).Cự
môn hiếu phục thường.
3-Cung THIÊN TAI: TAM LY THỔ CUỘC. ( XẤU ). Lộc tồn nhân đa lãm.
4-Cung THIÊN TÀI: TỨ NGHĨA THỦY CUỘC. ( TỐT ). Văn khúc chử vạn chương.
5-Cung NHÂN LỘC: NGŨ QUAN KIM CUỘC. ( TỐT ). Vũ khúc xuân lộc tinh.Phú
quý tự an ninh.
6-Cung CÔ ĐỘC: LỤC CƯỚC HỎA CUỘC. ( XẤU ). Liêm
trinh
tửu sắc thanh.
7-Cung THIÊN TẶC: THẤT TAI HỎA CUỘC. ( XẤU ). Phá quân chủ tung hoành.
8-Cung TỂ TƯỚNG: BÁC BỜI THỔ CUỘC. ( TỐT ). Phụ
đồng tể tướng tinh.
KÍCH CỠ CỦA THƯỚC LỔ-BAN: Chiều dài chính xác của thước Lổ-Ban này là 520 mm (= 0,52 m).-Được chia ra làm 8
cung LỚN : Theo thứ tự từ cung QUÝ NHÂN đến cung TỂ TƯỚNG như trên. Mỗi cung LỚN dài 65 mm.
-Mỗi cung lớn: Được chia ra làm 5 cung nhỏ như trên. Mỗi cung nhỏ dài 13 mm.
KẾT LUẬN VỀ VIỆC THỐNG NHẤT THẦN HỌC TOÀN NHÂN LOẠI-THỐNG NHẤT TÔN GIÁO
THỜI THÁNH ĐỨC-ĐÂY LÀ THIÊN Ý BẮT BUỘC CỦA THƯỢNG ĐẾ ĐỂ THỐNG NHẤT NHÂN LOẠI,
CHỐNG KỲ DỊ VÀ PHÂN BIỆT TÔN GIÁO-TIẾN LÊN THÀNH LẬP ĐẠI ĐỒNG HỢP NHẤT TOÀN
NHÂN LOẠI
7 vị Bắc đẩu cổ Phật (theo đạo
Phật)-cũng là 7 vị tinh quân (theo Đạo giáo-và các pháp môn)-là các Đại thiên thần theo Thiên Chúa giáo.
Họ chính là các Hóa thân của Thượng đế phân
tính ra-là các Thượng cổ Thiên Thần do Thượng đế sinh ra từ khi khai sinh ra càn
khôn vũ trụ.
Hội đồng 9 vị Bắc Đẩu là Đại tổng quản các Thiên thần; hợp nhất trong cơ thể con người tại trần
gian-là Thần chủ giữ bản mệnh con người, muôn vật.
-Về mặt hình thể
vật chất phần hữu vi âm tính: 9 vị Bắc đẩu hợp nhất, cũng được coi tượng trưng
là Đức Vương Mẫu Phật; hay là Mẫu Vương Tiên-Mẫu Thượng Thiên-Chủ trì
Hội đồng chư Phật, chủ
trì đầu thai, nghiệp quả, tạo luân hồi, sinh ra thể xác khí chất tạo nên hình
thể vũ trụ hữu hình; văn hóa Phương đông gọi là Cửu Thiên Huyền Nữ-cai quản
Thượng Thiên, hay trong đạo Tứ phủ Việt Nam gọi là Mẫu Thượng Thiên. Đạo Cao
Đài gọi là Diêu Trì Kim Mẫu, Mẫu Phật;
đạo Giáo Trung Hoa gọi là Giao Trì Kim mẫu. Chúng ta thống nhất gọi là Đức Vương Mẫu-hay là Mẫu Vương Tiên.
Cha-Mẹ là 2 phần của Thái Cực Âm-Dương. Các con tu luyện về trời phải vô cùng
kính trọng Mẫu Vương vĩ đại đã ngàn đời nay tạo tác mọi mầm sống cho vũ trụ,
cho muôn loài chúng sinh.
Tất cả nhân loại phải thấu hiểu sâu sắc điều này, mới gọi là hiểu về Chân
Lý đúng đắn-Giác ngộ.
-Tại
trần gian, người Mẹ-Mẫu-tượng trưng cho sự sinh thành và nuôi dưỡng bản thân
mình, nên trước hết phải kính trọng Mẹ-Mẫu trước. Đạo Trời cũng là Đạo làm
Người mà thôi.
* Chúng ta tôn thờ Vua Cha Thượng đế-Thiên
Phù như thế, là HỢP NHẤT TÍN NGƯỠNG-TÔN
GIÁO TOÀN NHÂN LOẠI, vạn pháp qui tôn, vạn phép qui thiện. Tất cả đều là
một gốc sinh ra, chỉ có cách gọi khác nhau, các tôn giáo phân hóa thành khác
nhau.
-Đại Thiên Thần-Đại Tinh quân-Đại Thánh-cũng
chính là các Đức Cổ Phật vậy! Tu luyện để về Thiên Đường-đồng nghĩa về Niết
Bàn. Trên Thiên Đình có Vua-đó là Thượng Đế. Nên gọi là Vua Cha. Có Mẫu
Vương-Mẹ muôn loài. Thần-Thánh-Tiên-Phật cũng đều là con của Cha Mẹ. Các giáo
chủ trực tiếp đều là các hóa thân của Thượng đế lâm phàm dạy Đạo.
Chính
Pháp Thiên đạo xây Thánh Đức là Pháp
chính Nhân gian do Thượng đế giao việc, giáng lâm chỉ dạy; cho nên, con
đường của Chính Pháp Thiên Đạo là tất yếu và là nguyên lý của loài người xây
dựng xã hội tương lai-không có con đường nào khác, kể cả có tận thế xong, cũng
phải xây Thánh Đức như Nguyên lý xã hội lý tưởng này, dù có lâu.
NÓI VỀ THẦN CHỦ MỆNH:
THỜ
KÍNH THIÊN PHÙ THÁNH GIÁ LÀ CŨNG LÀ KÍNH THỜ THẦN CHỦ MỆNH RIÊNG CỦA MÌNH.
Thượng đế phân thân, chiết tính và chia linh
hồn mình thành các con, cho đầu thai làm người, thì khi Thượng đế phân thân ra,
thành Thần Chủ của linh hồn mình trên cao. Khi các con thờ Thiên Phù Thánh Giá,
là thờ Thượng đế, đồng thời cũng là Thần Chủ Mệnh riêng tại nhà mình. Mỗi ngôi
sao trên cao, là một Thần Chủ riêng, như mỗi ngôi nhà có Thần Bếp riêng, vậy
Thần Chủ Mệnh là Thượng đế của mỗi bản mệnh. Sao chiếu mệnh cũng chính là Thần
Chủ Mệnh. Tất cả mọi linh hồn đều hợp
nhất trong Thượng đế, nhưng Thượng đế lại phân tính và hoá thân thành các thần
thánh, thì thờ Thiên Phù Thánh Giá cũng là tượng trưng cho Thượng đế Toàn
năng-Đại Hồn của Vũ trụ. Thượng đế cũng là Thần Chủ của toàn bộ sự sống trong
Vũ trụ, của toàn Vũ trụ. Cha là Cha sự sống-Cha Linh hồn-Đấng Tự Hữu duy nhất
trong toàn Vũ trụ. Đấng Tự có, Tự sinh ra và làm ra tất cả, sinh ra con người
và cho làm người; chúa của sự sống và sự chết; chủ quản của
Nhật-Nguyệt-Tinh-Không gian-Thời Gian và mọi đẳng linh hồn, từ hồn cây, thảo
mộc, đất đai, vật phẩm cho đến sắt thép, của cải…
Cha
là Đấng Sống cho các con và là Đấng Toàn năng tạo ra muôn vật-không chỉ riêng
con người. Đấng Im Lặng, tự làm, tự sống, tự chuẩn hoá sự sống và trải nghiệm
riêng, lên Cha cũng có một linh số và đại hồn riêng tư và Cha làm Vua trên
Trời, và vì cây trên đất, người trên đất lên Cha cũng là Vua của mọi linh hồn
trên đất. Cha dạy các con như bố các con dạy chính các con mọi việc. Cha là
linh hồn Gốc của Vũ trụ, khai sinh ra toàn bộ vũ trụ, thì Cha sống như người và
tạo ra con người giống hình ảnh của mình, nên ở trên Trời thì Cha như con người
bình thường; khi Cha xuống mặt đất, thì trông Cha cũng như người bình thường;
các con sống, ăn, ở, mặc, sinh hoạt thế nào, thì Thượng đế cũng sống y như thế.
Ngoài ra, vì là Cha của cả súc sinh, cây cối, nên Cha nuôi chúng và tất nhiên
cũng thương yêu chúng.
Đại
Hồn Cha ở trong lõi của muôn vật, muôn sự sống và tạo ra hơi thở của sự sống,
tạo ra khí thở cho sự sống; tạo ra không khí cho đất và người sống; tạo ra đất
và nước để nuôi sống con người.
Khi
có mưa, có nước uống, có cây nảy mầm, có không khí để thở, có lời để nói, có
cái ăn, có cái mặc, có gia đình vợ chồng con cái, các con phải cám ơn Thượng đế
đã nuôi sống tất cả bằng NGUYÊN KHÍ của Vũ trụ, có ở trong Tự Nhiên. Cha là
Đấng Tự Nhiên-Vừa là Cha, vừa là Bà Mẹ Vũ trụ, nuôi nấng tất cả. Không có gì
nằm ngoài Thượng đế, cho dù Thượng đế có biết hay không, có nghĩa là tất cả đều
nằm trong nguyên lý Vũ trụ do Thượng đế tạo ra. Thượng đế tạo ra đàn ông, đàn bà
và có thể làm đàn bà đầu thai thành đàn ông, đàn ông đầu thai làm đàn bà.
Nhiều
vong hồn tà ma không siêu thoát, ngu tối ít học, kém tiến hoá đã không hiểu
Thượng đế là tất cả, nên có ý phân ngôi hay tranh dành , hoặc ghen tỵ với cái
ngôi vị làm Vua trên Trời, vì chúng thích làm quan, thích khống chế quản trị kẻ
khác, thích nịnh nọt….Xã hội gian ác đã tạo ra vô số vong hồn bất trị nên
Thượng đế phải dày công dạy dỗ con người hiểu luật Trời. Cha không chỉ làm Vua
của các Vua, Chúa của các Chúa, các Thiên Vương mà còn là người thường, hay
tĩnh lặng, Đấng Nghỉ ngơi trong mọi sự sống; khi Nghỉ, các con sống tốt hơn,
khi Chân Lý suy đồi, loài người ngu tối, đại mạt, thì Chân Lý hiển lộ và Thượng
đế phải sửa sang sự đốn suy đó bằng sức mạnh của sự sống Vũ trụ. Cha là Chúa
Phán xét, Cha cả của mọi gia đình, là Mẹ của sự ấm áp nuôi dưỡng. Thượng đế
không chỉ nuôi dưỡng con người trong một kiếp này, mà muôn năm, muôn kiếp, muôn
đời, nên KÍNH ƠN CHA không bao giờ thừa; sự kính chính là sự làm theo và tôn
trọng nguyên khí Tự nhiên, sống Tốt. Một kẻ gian ác, sẽ sống Tồi và làm mỏi mệt
nguyên khí chung, suy đồi chính khí, làm các thể vía của tự nhiên và trái đất
suy yếu. Toàn bộ tự nhiên là THÂN MỆNH CỦA THƯỢNG ĐẾ, thế trái đất suy đồi,
loài người đốn mạt có làm Thượng đế mệt nhọc không? Tất nhiên là CÓ!
Toàn
Vũ trụ này là một SINH MỆNH SỐNG, thì nếu sự sống bất cứ nơi đâu bị ảnh hưởng
hay phản động ngu tối, thì nơi đó là Thượng đế bị mệt mỏi, đau yếu; một con
sông bẩn, một đồi núi bị sạt lở, là làm Thượng đế đau mình mẩy. Một con người
đau đớn, đau khổ, tiếng đau, tiếng kêu thấu lên Trời, sẽ làm Thượng đế lưu tâm,
đôi khi buồn vui cùng nhân thế.
Lên,
xây NƯỚC TRỜI TẠI THẾ, THIÊN ĐƯỜNG TRÊN
ĐẤT, là mơ ước lâu dài của Thượng đế, để giúp con người khỏi đau khổ, thì
Thượng đế sẽ vui hơn. Cho nên, các con phải học: LÀNH-THIỆN-KHIÊM TỐN- THANH
TĨNH-là gần Thượng đế. Các tôn giáo chính là dạy cách đó thôi. Cách nói Hợp
Nhất với Thượng đế có hai ý nghĩa: Sống như bản tính của Thượng đế là gần
Thượng đế, hay được Cha ưu ái hơn; và hợp nhất trong nguyên lý vũ trụ, thì theo
luật đồng thanh tương ứng, khí hợp nhất, các con phải giống như Cha mình, nếu
sái khác, tất rớt xuống và khó gặp Cha khi trở về Trời.
Cha
có thể hoá xuống làm một kẻ hành khất, để xem sự sinh tồn và xét mọi sự; điển
giáng, hay nhập thể vào một người để làm việc tốt cho con người. Chúa Giê-su
Chist là một Đấng Hoá thân và cũng là một người được nhập Điển giáng thân của
Chúa Cha. Các thần thánh khác cũng được Cha nhập điển hay phái xuống thế gian
giúp dân chúng và triển khai thi hành các Luật giúp xã hội loài người. Ở phương
Tây, gọi Cha là Chúa Cha, Thiên Chúa, ở phương Đông thì gọi là Alah, Ngọc Hoàng
Thượng đế, Giàng, ông Trời….Tất cả là Một mà thôi.
Các
tôn giáo là các bản tính riêng của Thượng đế. Nên các con không được suy bì,
đấu tranh tôn giáo, trừ tôn giáo phản động, tà đạo.
PHÉP
II-LỄ TRÌNH ĐẠO
CÁCH TRÌNH ĐẠO KHI LẬP BÀN THỜ
THƯỢNG ĐẾ
Khi lập bàn thờ, hoặc nhập Thiên Đạo, phải
làm lễ Trình Đạo-để tấu thỉnh Thiên Đình để khai phép lệnh, cho lập bàn thờ hay
bản mệnh mình được chứng ứng.
Lập lễ chay.
Nội dung sớ: In ra rồi làm lễ
Nội dung sớ: In ra rồi làm lễ
Hôm nay là ngày…
… tháng……..năm ….
Chúng con gồm:
Họ và Tên:………………………………………….Tuổi………………
………………………………………………………………………………………Bản gia ngụ tại:………………………………
Xã (phường)………………Huyện (thị trấn)……………
Tỉnh (thành phố)………………Thuộc nước………...
Hôm nay chúng con có lễ kính dâng lên Thiên đình, kính thỉnh
Cha, Mẹ và các Thần thánh việc như sau: Con xin lập lễ tấu lên Vua Cha, được
làm lễ thờ Vua Cha. Con nay thấu ngộ Chân Lý vĩ đại, xin được nguyện tu luyện
dưới ánh sáng Cao Minh vĩ đại của Cha! Dù có gian khổ cũng không sờn lòng.
-Kính xin Cha, Mẹ, Các Thầy cứu độ.
Từ nay, con xin nguyện
làm theo đúng 9 điều Không sau:
1-Không
bỏ: Tôn Thờ Vua Cha Thượng đế.
2-Không chiếm: Của cải, tài danh, hạnh phúc của người khác.
3-Không tham: Danh lợi, vật dục tầm thường.
4-Không nói: Gian dối, xảo ngôn, ác ý, hồ đồ.
5-Không quên: Người nghèo khổ, hư dốt.
6-Không gây: Hận thù, chiến tranh.
7-Không ở: Bẩn thỉu,
phá hại môi trường.
8-Không nghiện: Các chất kích thích nặng.
9-Không ngừng: Xây dựng Thiên đường Hạ giới
-Xin thề!
Họ tên……………………………
KÍNH TẤU!
Phần này
in màu cho đẹp-in nhiều bản sử dụng nhiều lần
Sau khi đọc Sớ, thì đọc
Kinh Kính Ơn Cha và Mẹ:
Kính ơn Cha (Thượng đế)
Kính Mẫu Vương
Sau khi cúng xong thì hóa sớ, không hóa Kinh.
Kinh chép riêng để đọc hoặc học thuộc càng tốt.
HƯỚNG
DẪN
TỰ LÀM LỄ CẦU GIẢI HẠN ÁCH, NĂM XUNG THÁNG HẠN, CHỮA BỆNH NẶNG. XIN TĂNG
SỨC, AN LẠC.
(Thờ Vua Cha thì không cần, chỉ cần kính tấu
bình thường-còn tùy tâm các con, nếu muốn cầu xin chính đáng thì cũng không
cấm. Hướng dẫn này dành cho cả người ngoài Thiên Đạo)
Lập
3 mâm Lễ:
-Vật phẩm tùy tâm
Yêu cầu:
Treo Thiên Phù trên cao ở giữa rồi hành lễ
Mâm 1-Lễ Vua Cha, Mẫu
Vương và Thiên đình: Toàn đồ chay tịnh: Hương hoa, chè, xôi, bánh, không đốt
hương đen.
-Mâm đặt cao nhất. Đốt 3 ngọn nến, đặt ngang
hàng, ngọn ở giữa cao hơn hai ngọn bên.
Mâm 2: Lễ các vị tôn thần,
thiên binh thiên tướng, Táo quân, thành Hoàng, long thần bản thổ.
Mâm này lễ đồ mặn, hoặc chay, tiền thật,
rượu, hoặc bia đều được. Không cúng hàng mã.
-Để ở giữa.
Mâm 3: Lễ gia tiên ( Cửu
huyền thất tổ).
- Mâm này lễ đồ mặn, hoặc chay, tiền thật,
rượu, hoặc bia đều được. Không cúng hàng mã.
-Để ở dưới thấp hơn mâm 2.
-Các mâm dùng cốc để cắm mỗi mâm 3 nén hương.
-Khấn như trong sớ. Nội dung sớ-in ra rồi làm
lễ
Hôm nay là ngày… … tháng……..năm ….
Chúng con
gồm:
Họ và Tên:………………………………………….Tuổi………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Bản gia ngụ tại:………………………………
Xã (phường)………………Huyện (thị trấn)……………
Tỉnh (thành phố)………………Thuộc nước………...
Hôm nay chúng con có lễ kính dâng lên Thiên đình, kính thỉnh
Cha, Mẹ và các Thần thánh việc như sau: Con xin lập lễ tấu lên Vua Cha, được
làm lễ thờ Vua Cha. Con nay thấu ngộ Chân Lý vĩ đại, xin được nguyện tu luyện
dưới ánh sáng Cao Minh vĩ đại của Cha! Dù có gian khổ cũng không sờn lòng.
-Kính xin Cha, Mẹ, Các Thầy cứu độ.
Từ nay, con xin nguyện làm theo đúng 9 điều Không sau:
1-Không
bỏ: Tôn Thờ Vua Cha Thượng đế.
2-Không chiếm: Của cải, tài danh, hạnh phúc của người
khác.
3-Không tham: Danh lợi, vật dục tầm thường.
4-Không nói: Gian dối, xảo ngôn, ác ý, hồ đồ.
5-Không quên: Người nghèo khổ, hư dốt.
6-Không gây: Hận thù, chiến tranh, giết hại chúng sinh.
7-Không ở: Bẩn
thỉu và phá hại môi trường.
8-Không nghiện: Các chất kích thích nặng.
9-Không ngừng: Xây dựng Thiên đường Hạ giới
-Xin thề!
Họ tên……………………………
Kính tấu!
Phần này in màu cho đẹp-in
nhiều bản sử dụng nhiều lần
Sau khi đọc Sớ, thì đọc
Kinh Kính Ơn Cha và Kính Ơn Mẹ:
-Ghi nhớ: Đọc Kinh Kính Ơn Cha-Mẹ xong, thì phải
quỳ 9 lạy.
-Khấn xong, để khoảng 20 phút thì tiễn các
ngài, quì xin hạ lễ, rồi đốt sớ cầu.
Thượng đế còn cho phép người Thiên Đạo đọc thêm 2 bài kinh: Đây là cách ý của Vua Cha để Cao Đài
nhập Thiên Đạo mà Thiên Đạo hợp nhất với Cao Đài lâu dài sau này. Cha rất ưu ái
Cao Đài, Mật Tông, trong các Bí pháp của Thiên Đạo đều có bí pháp mật điển để
bảo vệ 2 tôn giáo quan trọng này...
CÒN TẤT CẢ CÁC TÔN GIÁO QUI NGUYÊN TRONG THẦN
HỌC LÀ THIÊN PHÙ LÀ HỢP NHẤT CÁC TÔN GIÁO TRONG TÍN NGƯỠNG, NÊN NHO-THÍCH-LÃO-HỒI-DO
THÁI-HAY BALAMÔN-HINDU...ĐỀU HƯỚNG VỀ THỜ CHA BẰNG THIÊN PHÙ LÀ HỢP LẼ TIẾN HÓA
VỀ SAU.
Kinh
Ngọc-Hoàng Thượng-Đế ( Đọc thêm)
Đại-La Thiên-Đế
Thái-Cực Thánh-Hoàng
Hóa dục quần sanh
Thống-ngự vạn-vật.
Thái-Cực Thánh-Hoàng
Hóa dục quần sanh
Thống-ngự vạn-vật.
Diệu-diệu "Huỳnh-Kim-Khuyết".
Nguy-nguy "Bạch-Ngọc-Kinh".
Nguy-nguy "Bạch-Ngọc-Kinh".
Nhược thiệt, nhược hư,
Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa.
Thị không, thị sắc,
Vô-vi nhi dịch sử quần-linh.
Thời thừa lục long,
Du hành bất tức.
Khí phân Tứ Tượng,
Hoát triền vô biên.
Càn kiện cao minh,
Du hành bất tức.
Khí phân Tứ Tượng,
Hoát triền vô biên.
Càn kiện cao minh,
Vạn loại thiện ác tất kiến,
Huyền phạm quảng đại.
Nhứt toán họa phước lập
phân.
Thượng chưởng Tam thập lục Thiên,
Thượng chưởng Tam thập lục Thiên,
Tam Thiên Thế Giái.
Hạ ốc Thất thập nhị Địa,
Tứ Đại Bộ-Châu.
Tiên-Thiên Hậu-Thiên.
Tịnh dục Đại-Từ-Phụ.
Tịnh dục Đại-Từ-Phụ.
Kim ngưỡng, cổ ngưỡng,
Phổ-Tế Tổng-Pháp-Tông.
Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi quân,
Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ.
Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi quân,
Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ.
Trạm tịch chơn Đạo,
Khôi mịch tôn nghiêm
Biến-hóa vô cùng,
Khôi mịch tôn nghiêm
Biến-hóa vô cùng,
Lũ truyền Bửu-Kinh dĩ giác thế,
Linh oai mạc trắc,
Thường thi Thần giáo dĩ lợi sanh.
Hồng oai, Hồng từ,
Vô cực, vô thượng.
Vô cực, vô thượng.
Đại-Thánh, Đại-Nguyện, Đại-Tạo,
Đại-Bi.
Huyền-Khung Cao Thượng-Đế,
Huyền-Khung Cao Thượng-Đế,
Ngọc-Hoàng tích
phước hựu tội,
Đại Thiên-Tôn.
Đại Thiên-Tôn.
"Nam-mô Cao-Đài Tiên-Ông
Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát" (9
lạy)
Phật Mẫu Chơn Kinh
Tạo-Hóa
Thiên Huyền-Vi Thiên-Hậu,
Chưởng Kim-Bàn Phật-Mẫu Diêu-Trì.
Chưởng Kim-Bàn Phật-Mẫu Diêu-Trì.
Sanh quang dưỡng-dục quần-nhi,
Chơn-linh phối nhứt thân vi Thánh hình.
Thiên-Cung xuất Vạn-linh tùng pháp,
Hiệp âm dương hữu hạp biến sanh.
Hiệp âm dương hữu hạp biến sanh.
Càn Khôn sản-xuất hữu hình,
Bát hồn vận-chuyển hóa thành chúng-sinh.
Cộng vật-loại huyền-linh đồ nghiệp,
Lập tam-tài định kiếp hòa căn.
Lập tam-tài định kiếp hòa căn.
Chuyển-luân định phẩm cao thăng,
Hư-vô bát-quái trị thần qui nguyên.
Diệt tục kiếp trần-duyên oan trái,
Chưởng đào tiên thủ giải trường-tồn.
Chưởng đào tiên thủ giải trường-tồn.
Nghiệp hồng vận tử hồi môn,
Chí-công định vị vĩnh-tồn Thiên-Cung.
Chủ Âm-quang thường tùng
Thiên-mạng,
Độ chơn-thần nhứt vãng nhứt lai.
Độ chơn-thần nhứt vãng nhứt lai.
Siêu thăng phụng liễn qui khai,
Tiên-Cung Phật xứ Cao-Đài xướng
danh.
Hội nguơn hữu Chí-Linh huấn chúng,
Đại Long-Hoa nhơn chủng hòa Ki. (là cơ)
Đại Long-Hoa nhơn chủng hòa Ki. (là cơ)
Tam-kỳ khai-hiệp Thiên-thi,
Khoa-môn Tiên-vị ngộ kỳ Phật duyên.
Trung khổ-hải độ thuyền bát-nhã,
Phước từ-bi giải quả trừ căn.
Phước từ-bi giải quả trừ căn.
Huờn hồn chuyển đọa vi thăng,
Cửu Tiên hồi phục Kim Bàn chưởng Âm.
Thập Thiên-Can bao hàm vạn tượng,
Tùng Địa-Chi hóa trưởng càn-khôn.
Tùng Địa-Chi hóa trưởng càn-khôn.
Trùng huờn phục vị thiên-môn,
Nguơn-linh hóa chủng quỉ hồn nhứt thăng.
Vô siêu đọa quả căn hữu pháp,
Vô khổ hình nhơn kiếp lưu oan.
Vô khổ hình nhơn kiếp lưu oan.
Vô địa-ngục, vô quỉ-quan,
Chí-Tôn đại xá nhứt trường qui-nguyên.
Chiếu nhũ-lịnh Từ-Huyên thọ
sắc,
Độ anh nhi nam, bắc, đông, tây.
Độ anh nhi nam, bắc, đông, tây.
Kỳ khai tạo nhứt Linh-Đài,
Diệt hình tà-pháp cường khai Đại-Đồng.
Hiệp vạn-chủng nhứt môn đồng mạch,
Qui thiên-lương quyết sách vận-trù.
Qui thiên-lương quyết sách vận-trù.
Xuân-Thu, Phất-Chủ, Bát-Vu,
Hiệp qui Tam-Giáo hữu cầu Chí-Chơn.
Phục nguyên-nhơn huờn tồn Phật tánh,
Giáo-hóa hồn hữu hạnh hữu duyên.
Giáo-hóa hồn hữu hạnh hữu duyên.
Trụ căn quỉ khí cửu-tuyền,
Quảng khai thiên thượng tạo quyền chí công.
Lịnh Mẫu-Hậu khai Tông định
Đạo,
Ân dưỡng sanh đảm-bảo hồn-hài.
Ân dưỡng sanh đảm-bảo hồn-hài.
Càn Khôn Tạo-Hóa sánh tài,
Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài mộ khang.
"Nam-mô Diêu-Trì Kim Mẫu
Tạo-Hóa Huyền Thiên Cảm Bái"
"Nam-Mô Đại-Từ-Bi Năng Hỉ-Xả
Thiên-Hậu, Chí-Tôn, Đại-Bi Đại-Ái".
(9 lạy)
MỘT SỐ ĐIỀU
CẦU CÚNG
-Cấm khấn các việc ác, hay
cầu lên quan chức cốt để tham quan ô lại, học dốt đi thi lấy may, buôn bán gian
trá, hại người thiện, tranh đoạt, cầu tiền ích kỷ vinh thân phì gia
( Tự
phấn đấu, không ai độ cho những việc cơ hội tâm linh. Vì chúng sinh nhiễm lậu,
cầu lợi cơ hội, nên làm nhiễm tạp tất cả các cảnh chùa, đền trong thời mạt pháp
các đạo,bề trên không độ trì cho các việc ấy)
-Chỉ được cầu giải hạn ách, thêm sức
chữa bệnh tật, xin trấn áp kẻ ác, bản mệnh an lành, thêm tuổi thọ, gia đình xã
hội hạnh phúc, an lạc.
-Kỵ cầu không được, thì chửi, báng lại.
Bệnh nạn, do nghiệp chướng, nghiệp quả
nặng, là do căn số phận, tội lỗi các kiếp trước, kiếp này gây ra-không
ai ghánh thay cho những thứ đó, muốn được cứu độ, phải tin tưởng, có lòng kính
tín tâm linh chân thành, phải sửa tính
xấu
thường ngày nếu có, như: hận thù, thói xảo ngôn, hồ đồ, ghanh ghen đố kỵ,
tranh tham, buôn gian bán lận, khinh thị người nghèo, ác tâm, xảo trá vô minh
coi khinh thế giới tâm linh, thói chửi trời rủa đất ghét nắng chửi mưa, phá
hại, gây ô nhiễm môi trường, tàn sát tôm cá, làm nghề hàng giát, giết mổ, bóc
lột người nghèo, tính ác hại người thiện, hay bới lỗi người khác, ghét kẻ chân
chính hơn mình; tranh dành công danh tài lộc, tham nhũng, đánh vợ chửi chồng,
thích giết hại chúng sinh, thói xấu trong ăn uống nghiện ngập, ngại giúp lại
người khác… Tất cả những người này, nếu cầu mà không thấy khỏi, thì chớ
trách Trời.
-Chống Cơ hội tâm linh (bạ đâu cũng
cúng, cũng cầu, nhưng bảo sửa tính, hay tu luyện, làm phúc, ăn chay lấy vài
ngày để chữa bệnh, thanh lọc cơ thể, luyện dưỡng sinh thì lại ngại! Đi đâu cũng
khấn vái, nhưng hỏi đạo đức Phật giáo là gì, thánh thần đó đạo hạnh ra sao, thì
không biết; bảo thờ tự Cha Trời, thì ngại, đọc kinh chép sách, cốt chỉ là hình
tướng. Nhưng lại sẵn
sàng cúng bất cứ gốc cây, hòn đá hay có vong tà ma quỉ ác nào đó, là sụp lạy,
miễn là thấy thiêng, thấy được việc, nhưng đó là vay rồi phải trả…số phận chỉ
thay đổi, khi đức năng thắng số).
Thời
mạt thế, chúng nhân đi chùa chiền đình đình điện nhiều, nhưng không thấy ai cầu
cho mọi người cùng hạnh phúc, nhân dân thái bình, thế giới hòa bình đại đồng,
cầu độ cho sáng tâm sáng lòng, giác ngộ Chân Lý, hết vô minh; chỉ toàn cúng xin
lộc, tiền, danh, tài; ai cũng như thế, thì sao xã hội chả rối reng! Đó là điều
mạt pháp các đạo từ đầu thế kỷ 20 rồi, thấy chúng sinh đi chùa đền nhiều, là
người nghiêm túc, thì thấy không đáng
mừng, vì cốt cầu lợi danh, chứ không còn người tôn sùng tôn giáo ấy mà tu tập theo, hay đến đó để ngưỡng vọng
đạo đức những vị thánh thần ấy để học tập theo. Hiện các đạo đều mạt pháp, theo
luật mới của Thiên đình, tốt nhất là thờ Trời ở nhà và tu luyện để tự cứu mình
trước khi Trời cứu. Kẻ đi cầu nhiều mà hết được bệnh, hết nạn hiện nay rất
hiếm. Chớ mê muội.
-Những
căn bệnh lớn, nghiệp quả nghiệp căn sâu nặng nề, thì phải ăn chay, làm theo 9 điều không phạm, tự tu luyện lấy, tự
cứu độ mình là chính, làm phúc làm đức, may ra mới giải được! Phải làm lễ giải
tại nhà, rồi sau đó phát nguyện đi làm công đức cho những người nghèo khổ, giúp
người khác, hoặc thờ Trời, thiền tịnh tu luyện khí công cho mau hết bệnh.
-Đối
với người Thiên chúa giáo, Hồi giáo, có thể khấn Đức Chúa Trời ( cũng là Vua
Cha Thượng đế- ông Trời); có thể không đọc bài
Kính ơn Cha, thì đọc bài kinh bên Thiên Chúa giáo, Hồi giáo cũng được. Nên
kính tất cả các thiên thần-Thực chất là như nhau trên thiên đình, cách gọi khác
nhau mà thôi.
-Đối với việc siêu thoát cho vong linh
tiên tổ, thì phải ghi tên tuổi, năm sinh, năm mất của người vào sớ, xin Cha,
Mẹ, các thánh thần cho họ siêu thoát, phải kêu đến tên các vị xin siêu thoát ấy
về dự lễ. Sau đó, phải hồi hướng công đức lại cho người nghèo khổ, làm từ
thiện, để trả thay nghiệp quả cho tổ tiên, bù lại thì tiên tổ do được siêu
thoát, trở lên linh thiêng, sẽ độ trì lại cho tốt đẹp. Các vong đã qui sai vào
chùa, nếu chưa được các Phật độ cho siêu thoát, thì cần làm lễ siêu thoát,
tránh để vật vờ ăn xin đói lạnh nơi cửa phật-nơi đó là nơi tu hành, chứ không
phải là nơi chứa xương cốt, ảnh của
người chết ngoài đạo Phật.
Chỉ
nên khấn Phật cứu khổ cứu nạn-khi mình biết đạo đức nhà Phật, tin, theo đạo
Phật; còn nếu tham-sân-si thì chớ cầu-vô ích.
-Đối
với việc hóa giải tâm linh như bắt tà ma, phá bùa bả yểm đảo, thì cứ tấu trong
Sớ bề trên sẽ xét giải cứu. Tất cả các lọai bùa bả do ma quỉ nhiễm vào, vì pháp
sư tham ác, Thiên đình không cho dùng nữa, dần phá hết.
-Đối
với việc hóa giải hàn long mạch, nối long mạch, hóa giải thổ đất, cuộc đất hay
phong thủy, tẩy vía, trong thổ đất có xương cốt, thì có thể cũng làm Sớ mà
trình tấu.
-Nơi
có nhiều âm khí, sát khí, nơi có rớp tai nạn đường xá, sông ngòi, các nơi chiến
trường, nghĩa trang….thì cũng làm lễ như trên để lễ hóa giải, siêu độ. Niệm
Thiên Phù ốp áp xuống mà phá giải. Niệm ốp Thiên phù vào rồi khấn Các Ngài Bắc
Đẩu Thất Tinh phá hóa đi.
PHÉP III-PHÉP SÁM HỐI
Nếu
có tội, lỗi, thì đọc Kinh Sám hối,
thiền để siêu tâm, xả trọc. Khi cúng thân-tâm phải tịnh sạch.
Kinh Sám hối như sau: Nếu có lỗi
phạm, tội ám, đọc xong sẽ thấy thỏa mái, nhẹ nhõm hơn.
“ Lạy
Vua Cha kính yêu!
Lạy Vương Mẫu kính yêu!
Con xin sám hối tội lỗi
buồn phiền
Vì lậu hoặc tâm còn
tham nhiễm
Vì bụi trần chưa sạch
lòng tham
Nay xin tấu tội lên Thiên đàng
Mong Cha thương, Mẫu
cùng tha thứ!
-Có tội, lỗi gì thì
kể ra, nói nhẩm cũng được……………
-Sau
đó ngồi tịnh tâm, xả trọc, nhận lỗi và hứa sửa chữa thầm.
( Vì Thiên tòa chứng
mọi tội lỗi và hành vi, lời nói, suy nghĩ, nên Cha và Thiên đình biết hết, các
Phán quan của Tam Giáo Tòa sẽ cân đo phúc tội đầy đủ; cho nên Sám hối cốt để
nhận ra lỗi mà ăn năn hối cải, chứ không cố giấu tội lỗi được, nếu không sau
này chết về thiên giới phải bị đày ải rất khổ, hoặc bị đọa vào cảnh giới đau
khổ, tối tăm).
PHÉP IV-PHÉP
LỄ TẾ VÀ LỄ KÍNH
1-Bốn
Lễ Tế:
Một năm thần dân Thiên Đạo Thánh Đức làm bốn
lễ Tế Trời (Thượng đế): Các ngày chuyển tiết (chuyển nguyên khí trái đất và Vũ
trụ, gồm: Ngày Xuân Phân, Hạ Chí, Thu Phân, Đông Chí.
Làm lễ Tế Vua Cha, làm ngoài trời, lễ tuỳ
tâm. Các gia chủ tự làm tại nhà, hoặc các đại gia đình làm chung. Sau có đền
thờ Cha thì làm lễ tại đền thờ cho tập trung, nhưng không to bằng Lễ Kính. Vui
chơi một ngày, có ăn uống tập trung, nhưng không có Hội lễ vui chơi ca hát.
2-Ba Lễ
Kính:
Một năm làm ba Lễ Kính:
-Lễ
Kính Ơn Cha (Thượng đế): Ngày 9/1 âl.
-Lễ
Kính Thần Chủ Mệnh (đôi khi gọi là Thầy cũng được): Ngày 9/8 âl.
-Lễ
Kính Mẫu Vương- Ngày 9/12 âl. Người phương Tây cũng nương theo Ba ngày này mà
làm kính lễ.
*
Sau này vào thời Thánh Đức lâu dài, hoặc khi đã có điều kiện, các ngày lễ Kính
ơn đều làm Hội Lễ, tuỳ theo phong tục địa phương cho đa dạng. Thể thức lễ làm
trong nhà, ngoài sân, lễ rước kiệu, múa hát vui vui chơi ca hát, bắn pháo hoa,
thi đấu thể thao, lễ rước linh ảnh tượng trưng... hội hè ăn uống tập trung, kéo
đèn hoa đăng, thả chim, dâng hình trái đất lên cao…
LỄ TẾ TRỜI
Lễ này
tổ chức trong các ngày Chuyển Tiết giao mùa. Ngày Xuân Phân, Hạ Chí, Thu Phân,
Đông Chí.
Từ trước đến nay nhiều dân tộc và tôn giáo
rất trọng ngày này, như dân Châu Âu, Úc, Nhật...đó là ngày Thiêng.
Pháp Ta qui định ngày này làm lễ Tế Thượng đế
ngoài trời, lập bàn tấu khấn, đốt lửa lên rồi quì đọc Kính Ơn Cha, Mẫu, sau đó
liên hoan ăn uống đơn giản, có các lễ vui chơi như Hội thắp đèn, Hội thiền, Hội
nhảy nhót quanh lửa-nên tổ chức vào buổi tối. Nếu trời mưa thì làm bạt che. Nếu
các dân tộc và tôn giáo trước có Hội gì thì nên phát huy cách cũ, chỉ thêm là
lập bàn thờ ngoài trời kêu khấn và cám ơn Cha Mẹ là được. Lễ này không trọng
nghi thức rườm rà. Hội này khác Lễ Kính là không có Lễ rước và nghi thức quan
trọng.
-Nếu hiện
nay chưa có điều kiện, chưa có Hội đoàn Thiên Đạo thì các con tự làm lễ Tế Vua
Cha, làm ngoài trời, lễ tuỳ tâm. Các gia chủ tự làm tại nhà, hoặc các đại gia
đình làm chung. Sau có đền thờ Cha thì làm lễ tại ngoài đền thờ cho tập trung,
nhưng không to bằng Lễ Kính. Vui chơi một ngày, có ăn uống tập trung.
LỄ KÍNH ƠN CHA-MẪU VƯƠNG VÀ CÁC
THẦN THÁNH
TRONG ĐỀN THÁNH-LÀ NƠI THỜ
THƯỢNG ĐẾ
ĐỀN THỜ THƯỢNG ĐẾ THỜI
THÁNH ĐỨC
Đền thờ Vua Cha
Thượng đế thì
làm tại nơi yên tĩnh nhất-không là nơi hội họp, học hành, giảng bài, gọi là ĐỀN
THÁNH. 3 phía xung quanh-trừ trước mặt Đền cần có sự yên tĩnh, có vườn rộng rãi
cây cảnh hoa lá trái xum xuê bốn mùa tươi tốt, có non bộ, có suối nhân tạo, có
bể cảnh to lớn. Làm đền thờ thì trong Luật Thiên Đạo đã hướng dẫn, nay nói
thêm, các con phải là đền thờ kiểu Kim Tự Tháp Hình tròn-kiểu Ai Cập-có nhiều
tầng- tầng, có 8 cấp cầu thang lên, nóc đền thường nhọn tròn dần lên cao, chú ý
tránh sét đánh. Trong sau đền Thánh có Hậu Đường-nơi để đồ thờ tự, quản đền ở
phía sau. Bên trong Đền Thánh có Linh Đường rộng rãi bố trí Điện thờ-Trên cao nhất treo Thiên Phù
hình chữ Thập nổi bằng gỗ, đá, vàng, hay thạch anh màu trắng-dài 1m 72, chiều
ngang dài 72 cm. Vòng tròn lớn đường kính 42 cm, vòng tròn nhỏ 36 cm. Lõi tròn
đồng tâm ở giữa vòng tròn lớn là 18 cm, vòng tròn nhỏ là 12 cm. Chiều dày của
Thiên phù là 7 cm. Các sao đúc nổi, cân chỉnh cho đúng. Chiều dày của sao thấp
hơn vòng tròn giữa.
Bên
Trái bên dưới của Thiên Phù treo cờ Thiên Đạo-Bên phải của Thiên Phù treo Quốc
kỳ của Quốc gia đó.
Thiên
Phù treo cao hơn bàn thờ là 81 cm.
Ở
dưới bày hương án có ghế Ngai ( Như bên Việt Nam-Trung Quốc hay thờ ) cho 1
ngôi giữa là Cha, ghế Ngai bên Phải là Mẫu Vương ( hay Mẫu Phật-theo Cao Đài và
Mật Tông)- ghế Ngai bên trái là Long Hoa Giáo Chủ Phật Vương.
Ở dưới bày 9 ngón nến và Nghi
trượng thờ các Thần Thánh.
Dưới nữa là 9 ngón nến và Nghi
trượng của các Thần:
Thần 1-TRÍ TUỆ-Thế giới Trí
Tuệ Thành tựu. Nữ thần. Nghi trượng màu
đỏ.
Thần 2-SÁNG TẠO-Nguyên khí nuôi dưỡng
sinh ra vạn vật và nuôi dưỡng, sáng tạo. Cả âm và dương thần, có khi là âm có
khi là dương khí. Thế giới Cực Lạc. Thần Chủ Mệnh của Nhân loại. Thần cao nhất,
phía dưới Thượng đế.
Thần 3-HẠNH PHÚC-( Cực lạc)- ( hạch
phúc tròn đầy)- Thế giới Viên mãn Thành tựu. Nữ Thần. Nghi trượng màu hồng lam.
Thần 4-TĨNH LẶNG- Thế giới Tịnh Tâm
Thành tựu. Nữ Thần. Nghi trượng màu vàng.
Thần 5-GIẢI THOÁT-Không tham, thèm,
cảm giác cực lạc, an ổn và giải thoát hoàn toàn, không còn tranh đấu, đố kỵ và
đau khổ. Thế giới Vô Ưu Thành tựu. Nữ Thần.
Nghi trượng màu Xanh da trời.
Thần 6-TÀI LỘC-Thế giới Thiên Tiên
Thành tựu. Nữ Thần. Nghi trượng màu Tím.
Thần 7-SINH SÔI- Thần tinh thần quần
tụ, đoàn kết, sinh ra mới. Nữ Thần. Thế giới Hợp Tiên Thành tựu. Nghi trượng
màu trắng.
Thần 8-PHÚC ĐỨC-Thế giới Mẫu Tiên
Thành tựu. Nữ Thần. Nghi trượng màu đen.
Thần 9-CÔNG DANH-và cũng là Thần thi
hành phận sự-Thần Khâm sai của 8 Thần trên. Thế giới Thiên Vương Thành tựu.
Không có 8 đức trên, công danh và phận sự không thành quả phúc, công trạng vô
nghĩa, đời sống vô giá trị. Công danh tài lộc đi với thực hiện bổn phận.
9
Thần này là các Hóa thân của Thượng đế phối trí xuống thế giới để độ tính mạng
và sự sống, sự tồn tại cho loài người thời Thánh Đức.
( 9
trạng thái Thế giới cõi Đại Đồng-Thánh Đức trên cao và dưới trần gian).
Dưới
nữa là bày 9 Bộ Nghi trượng nhỏ hơn để tôn thờ 72 Thánh Khai Đạo của Thiên Đạo.
Mỗi Nghi trượng thờ một Thánh.
Nghi
trượng là gì? Đó là các Kim tự Tháp 8
tầng-cao 40cm-đường kính 40 cm làm bằng gỗ, đồng, đá thạch anh, hoặc vàng,
bạc-gần giống như tháp Văn Xương, có nóc tháp tròn to, có bệ đỡ-nhưng càng cầu
kỳ đẹp và dày dặn càng tốt.
Dưới
các Mâm này để một quả cầu bằng gỗ hoặc Thạch anh đúc.
Dưới
quả cầu đó để bộ trụ bình hương-không làm bát hương mà để trụ bình cắm
hương-chỉ đốt hương trầm-không dùng
hương đen.
Lễ đường là nơi đứng phát
biểu, hát ca, ở giữa có cột cờ Thiên Đạo để kéo cờ khi làm lễ-cột cờ chỉ cao
khoảng 5m, cờ cao khoảng 2m. Tất nhiên tính toán theo kích thước chiều cao của
Đền Thánh. Nếu Đền cao thì nóc đền phải cao, tính làm trụ cờ theo phù hợp.
Bái đường là nơi các con đến
hành lễ, ngồi hai bên như Cao Đài giáo.
Phía
ngoài đền, phía trước: làm cổng riêng-vì đền làm theo kiểu hình tròn tháp tròn
rồi, thì phía ngoài tùy cơ để làm cổng, không bắt phải theo yêu cầu, để tạo sự
đa dạng trong kiến trúc.
Hai bên cạnh lối đi
chính,
có vườn hoa nhỏ, ghế đá, bể cảnh, trồng hoa. Sân trước cần thật rộng, rộng đến
độ có thể chứa được vài ngàn người.
Có
được thờ tượng và ảnh không? Không được thờ và tượng ảnh của bất cứ ai, kể cả
giáo chủ. Ảnh Giáo chủ Thiên Đạo và các Thánh thì có thể làm Nhà Bảo tàng của
Đại Đạo-làm nhỏ-để trong vườn cây. Tại nơi trang trọng của sân chơi phía ngoài,
có thể để tượng DI LẶC VƯƠNG PHẬT-Nhưng
tùy nơi, không bắt phải làm giống nhau. Không thờ bát hương, chỉ trồng hoa xung
quanh. Không để các tượng khác. Tìm cách dụ chim trời đến làm tổ trong các vườn
cây để tạo sức sống cho Đền.
PHỐI CUNG TRONG ĐỀN THỜ
THƯỢNG ĐẾ
-Cung trên cao nhất, phía trên nhất là Linh Đường-thờ Thượng đế, các Toà.
-Cung giữa là Lễ Đường-là nơi các chức sắc hành lễ, là một cung trung gian, để
các đội kèn, trống đứng hai bên, phía giữa là bục phát biểu hướng lên.
-Phía dưới cùng là Bái Đường: Nơi tất cả những người còn lại ngồi, hoặc ngồi bệt, quì
lạy, bố trí thành các hàng dọc, kéo dài xuống mãi.
-Phía sau Đền thờ có nhà nghỉ, nhà khách, nhà
ở cho nhân viên phục vụ, trồng cây cảnh hoa lá, cất trống kèn và các thiết bị,
kiệu...gọi là Hậu đường.
Một năm
làm 3 lễ Kính ơn-thì làm lễ lớn, vui chơi 3 ngày; các lễ Tế-thì làm nhỏ hơn và
không có phần Hội lễ-tức văn nghệ, vui chơi, làm 1 ngày.
Bố trí lễ:
Trên Linh Đường
-Trên
cùng là bàn thờ; trên bàn thờ phía bên trái là cờ-Thiên Kỳ (sau có cột cờ Đạo).
-Hai
hàng trống con và kèn đồng đứng hai bên dưới bàn thờ.
-Dọc
bên cạnh Lễ Đường và xuống Bái Đường:
-
Dọc
đường lên bên trái có đội Thiên binh mặc đồ giáp trụ giả bằng màu vàng, đội mũ
giáp tròn, cầm kiếm gỗ vàng-tượng trưng cho Thiên binh Thiên Đức. Dọc đường lên
bên phải có đội Thiên binh mặc đồ giáp trụ giả bằng màu đỏ, đội mũ giáp tròn,
cầm kiếm gỗ đỏ-tượng trưng cho Thiên binh Thánh Đức. Quân này đứng xoay mặt ra
lối vào lễ, uy nghiêm, một tay dựng kiếm, một tay chắp hông.
-
Các
vị chức sắc và thầy lễ đứng hai hàng bên dưới bàn thờ, tín hữu đứng dưới các vị
này- nam bên tay trái, nữ bên tay phải nhìn từ trên xuống. Mặt hướng lên bàn
thờ.
Nếu
có quan khách thì mời ngồi ở hàng ghế trên cùng.
NỘI DUNG TẾ
LỄ:
Thượng
đế cho phép Hợp nhất với Cao Đài, có
thể bổ sung sau, tức là khi thành Thánh Đức, thì Cao Đài hợp Thiên Đạo, hay
Thiên Đạo trong Cao Đài cũng được, và các Lễ vía Đức Chí Tôn và Phật Mẫu được
nghi tiết như thế; sau này các con cần nghiên cứu hợp lý và sửa sang đầy đủ
hơn. Tất cả các lễ rước, lễ dâng...đều cho phép chọn lọc và sửa sang lâu dài.
Vì tính chất của Thiên Đạo-Cao Đài là lâu dài.
Vì
Phật Vương hóa thân xuống trần gian nhằm ngày
9/8 âm lịch, tức ngày 27/9 Dương lịch vào giờ thứ 9-tất cả là số 9. Nên
Thiên đình có ý chọn ngày này là ngày Lễ chung cho các Thầy-tức thần thánh Ngôi
Ba. Bên Cao Đài lại Lễ Vương Mẫu vào tiết rằm tháng 8 là trùng tháng, nên Vua
Cha cho ý là sau này phải chỉnh lại ngày Lễ Vương Mẫu, vào 9/12 cuối năm, vì
đầu năm lễ Cha, giữa năm lễ Thầy-cuối năm Lễ Mẫu-vì đầu và cuối-dương và âm là
hợp nhất, ở giữa trung tinh là con-Phật Vương hóa xuống thôi, còn Ngươn Linh
vẫn trên Trung giới cũng là trung cung trung giới, nên chọn ngày giữa năm là
hợp.
Ngoài
ra, Thượng đế yêu cầu Cao Đài giữ nguyên
các nghi Phép cũ, chỉ cần đưa Thiên Nhãn vào trong phần vòng trong to ở giữa Thiên Phù là hợp ý
Cha, hợp nhất Thiên Đạo vào Cao Đài là ý đó; còn các cách tu luyện giữ
nguyên không sao, Thiên Pháp có thể bổ sung vào Bí pháp Luyện đạo-tức là mở
rộng ra hơn. Mọi kinh sách của Thiên Đạo do Phật Vương giáng dạy, Cha dạy trực
tiếp, bổ sung vào lý luận Cao Đài, nên sau này Cao Đài nắm riềng mối vào Thánh
Đức, mà Thiên Đạo coi như giáng về Cao Đài là như vậy. Nhiều nhân sỹ Cao Đài sẽ
đầu thai trở lại để xây Thánh Đức sau này, nhớ lời Thầy và Cha dạy ở đây.
Tuy
nhiên, các con phải hiểu, lâu dài thì tất cả trở thành Thiên Đạo. Đó là Ý của
Cha.
MỘT SỐ HƯỚNG DẪN THAM KHẢO CÁC
CON CAO ĐÀI
THIÊN ĐẠO NGHIÊN
CỨU THÊM
-Đọc Lời Ân Điển khai
Lễ. Nội
dung diễn văn tùy điều kiện, có giới thiệu thành phần và khách dự nếu có.
Đọc
xong đến Lễ Kính Dâng.
-Chủ Lễ hô:-Khởi Lễ
Kính Dâng!.....Đốt nến, hương!.....
-Chủ Tế bước vào đốt nến
hương.
-Chủ Lễ hô: -Dâng hoa! ( 9 loại hoa-9 người dâng lên-đi
hàng dọc).
-Dâng rượu! (9 người đội rượu lên- đi hàng dọc).
-Dâng trà! ( 9 người dâng lên đi hàng dọc).
-Dâng quả! (9 loại quả-9
người dâng lên-đi hàng dọc).
-Dâng bánh! ( 9 loại bánh-9 người dâng lên-đi hàng dọc).
Sau
khi dâng quả lên thì chủ tế rót rượu
ra 9 cốc, cho người đặt lên; sau đó rót trà ra 9 ly cho người đặt lên.
-
Hai
hàng người đồng nam, đồng nữ lên dâng vật phẩm chay tịnh, hương hoa. Gồm 27
nam-27 nữ-Vật phẩm chọn lọc và đại diện của các Đoàn dâng: Mỗi đoàn có-đủ 18
thứ Bánh kẹo chay, 18 loại hoa quả, 18 bình nước trắng, 18 phẩm oản, 18 thứ hoa
tươi, 18 lọ nước hoa, 18 cái gương Thần, 72 ngọn nến trắng.
-
Chủ Tế đứng
sắp lễ. Sau đó những đồng nam và nữ này xuống đứng thành một hai hàng để lúc
làm lễ sẽ hát bài: Thiên Đạo Ca.
Chú ý: -Trên bàn lễ, đặt
thứ tự các thức vật phẩm theo bố trí như lượt dâng, nghĩa là: cái nào mang lên
trước thì đặt lên cao, phía trong và thấp dần xuống. Bày đủ 7 cái bàn cao thấp
7 bậc để đặt lễ. Vì những lễ thế này, Chư Thiên rồi các thần thánh các cung
cõi, thần thánh bản địa, rồi Thiên binh Thiên tướng xuống rất đông, nên Lễ các
vật phẩm ấy là cần đủ.
Khi dâng vật phẩm thì nhạc và trống tấu thành bài nhạc Mừng Lễ Dâng
PHẦN LỄ TẾ
Chủ Lễ hô:- Lễ tế
Vua Cha Thượng đế vĩ đại bắt đầu!
-Chủ Tế lùi xuống giữa ( xuống Lễ
Đường).
-Chủ Tế đọc:- Kính thỉnh Vua Cha, Mẫu Vương và
Các Toà giáng lâm. ( lúc này
không cúi lạy).
Chủ Lễ hô:-
Kéo Thiên kỳ!
Khi
Thiên kỳ được kéo lên, thì Chủ Tế hô:-Thiên
Đạo ca Thánh đức tấu mừng Vua Cha!
Hai
hàng đồng nam đồng nữ bắt đầu hát Thiên Đạo ca.
Thiên Đạo Ca
Muôn đời soi sáng muôn đời Thánh Đức Thiên Linh
Khi chúng ta đi, đi đến Đại Đồng
Kìa mặt trời cao rọi tia sáng ánh lấp lánh
Chân Lý Cha trao với ước nguyện trong lành
Đời đời từ đây ơn thiên thần đã giáng thế
Nhân loại đi lên đường lớn rạng ngời
Vòng tay Vũ trụ đồng tâm nhân loại
Phấp phới Thiên kỳ vẫy gọi nơi nơi
Mỗi chúng ta bất tử muôn đời
Là anh em, bạn bè tuyệt vời
Công xã Thiên đường là nơi ước nguyện
Hạnh phúc đây rồi chia với nhau thôi
Đây Lời ơn kính dâng lành Cha chúng ta!
Ân đức Cha ban tưới khắp hoàn cầu
Muôn lời tha thiết gọi ta tiến tới, tranh đấu
Kiến thiết Năm châu, thống nhất Hoàn cầu
Lúc
này trống và nhạc đệm theo. Sau khi hát xong, thì 9 hồi trống và kèn tấu lên.
Sau
đó dứt trống và nhạc.
Chủ Lễ: -Mời mọi người ngồi
xuống.
Chủ Lễ hô: -Đọc văn tế!
Chủ Tế quì xuống đọc văn
tế.
Văn
tế thực chất là tấu, nhưng viết dài hơn:
LỄ MỪNG
-Sau
Lễ Tế, thì đến Lễ Mừng: Là phần sau,
có thể đọc thơ, vui hội, múa hát…( Tùy
nơi, sau này Thánh Đức thì thành Hội mừng lớn, vui chơi ca hát: Lễ Kính ơn Cha,
Mẹ, vui chơi 3 ngày, còn lại các lễ khác 1 ngày ).
*
Lễ Mẫu như lễ Cha, chỉ khác là đọc Kinh Kính ơn Mẫu.
Kinh Kính ơn Vương Mẫu
Nơi Chính giác Thượng
Thiên cõi Mẹ
Đất thiên đường cực lạc
Thiên Linh
Mẹ ban quyền giáo hoá
chúng sinh
Quản nhân mạng thọ toàn
duyên nghiệp
Mẹ sinh ra chúng con các
kiếp
Cho nhân luân, số phận làm người
Là cội nguồn sự sống khắp nơi
Ân quả ấy tạo nên thời Thánh Đức
Kim Tự tháp ngự tình chân thật
Tâm giáng sinh truyền giáo đời này
Đem giáo lý phổ khắp tới nay
Gieo đức thiện ngàn năm ghi tạc!
Lòng Mẹ bao la như muôn ngọn thác
Tưới từ bi cứu nạn chúng sinh
Rửa chuộc khổ đau, ghánh tội nhân luân
Dạy dỗ bảo ban cho loài người thế tục
Xin dâng lên Mẹ vạn lời con chúc
Ước khổ đau vơi bớt Mẹ ơi
Mong cho Mẹ được nở nụ cười
Đây Thiên Đạo chúng con vào Thánh Đức
Đại Đồng này dâng lên Người thiện ngọc
Là hoa đời thơm cực lạc muôn năm
* Lễ Thầy ( Thần Chủ Mệnh-Các thần thánh nói chung)
như lễ Cha,
chỉ khác là đọc Kinh Kính ơn Thầy.
Kinh
Kính ơn Thầy
Tiến hoá triệu năm các vạn chúng sinh
Ghi ơn các Thầy lòng thành tâm đi trước
Nối nghiệp Cha, các thầy tạo bước
Gieo hân hoan Chân Lý đến muôn năm
Dạy chúng sinh phép học chỉ chăm
Mài ý chí luyện rèn lên đại nghĩa
Những khát vọng triệu vì sao không xuể
Truyền Nguyên năng của Mẹ của Cha
Giáng phúc phần, trừ ách tội, tà ma
Bao cứu thế Thầy muôn đời ghánh nặng
Công ơn ấy là biển khơi sâu lắng
Tạo trong lành bãi biển nương dâu
Cải hoán nghĩa nhân, lấy đạo làm đầu
Giáo hoá chúng sinh đi trên đường tốt đạo
Những sứ giả chỉ chăm tu tạo
Đắc quả trên đời còn lo giúp thế nhân
Nơi cảnh cao Thầy có thấu cho chăng
Xin ghi tạc công ơn Thầy vô lượng
Chúng con xin đi theo đường muôn trượng
Kính ơn Thầy, chúc thọ các Tiên sinh!
PHÉP
V-LÀM PHÉP LINH
Làm phép linh, truyền
năng lượng vào vật phẩm, nước… để cầu an, chữa bệnh, cầu
mạnh
khỏe.
Người
ốm hoặc sắp chết được dùng nước thiêng
rửa mặt, nước làm bằng nước trắng pha muối. Đọc Kinh Kính ơn Cha, Kinh
Sám hối để nhanh khỏi bệnh, hoặc nếu chết sẽ dễ siêu thoát.
PHÉP VI-TANG MA
I-Trước
khi mất:
1-Lập
bàn lễ và thắp MỘT NGỌN NẾN TO- ngọn nến của Thần Chủ Mệnh, BA NGỌN NẾN NHỎ-gọi
là Nến Linh hồn- để cạnh giường-Đem ánh sáng cho linh hồn sắp rời thể xác.
-Nếu
có bàn thờ thì thắp hương trên bàn thờ Cha.
2-Người
nhà hoặc Đạo sư đọc:- Kinh Siêu thoát.
3-Tẩy
trần bằng nước thuốc. Tắm thân thể bằng nước thuốc: Muối pha đại hồi, ngũ vị.
4-Tâm
sự, dặn dò, động viên.
(
Gia chủ không buôn rầu, hoảng hốt làm rối loạn tâm linh, không siêu thoát
được).
5-Làm
phép trợ linh hồn khi thoát xác để tiếp dẫn vong lên cảnh cao.
-Để
lên luân xa 6 một Lệnh bài Thiên Pháp và 8 cây Kim.
II-Khi đã thăng: Khâm liệm và làm
nghi thức Ban ân Giải nghiệp
1-Tắm
gội sạch sẽ bằng nước lá TRẦU KHÔNG, rồi cắt móng chân, móng tay. Móng chân,
móng tay này không được vứt đi mà phải gói lại để vào quan tài.
2-Mặc quần áo trắng, đai bụng đỏ cho
người mất.
Sau
đó, buộc hai ngón chân cái của người chết lại với nhau, hai tay để lên bụng, bó
vai bằng một sợi dây vải đỏ. Phủ mặt bằng giấy đỏ và 1 tấm Linh phù Tái Tạo. (Tái Tạo và Hình Thiên Phù).
3-Thắp
các ngọn nến đặt như trên, ở cạnh đầu
giường.
4-Khâm
liệm:
-Thi thể người chết được đặt trên chiếc chiếu dưới nền nhà.
-Thi thể người chết được đặt trên chiếc chiếu dưới nền nhà.
-Niệm
bó xác bằng tấm vải đỏ.
-Lúc
khâm liệm phải có Đạo sư-thầy lễ làm
lễ.
-Chọn
giờ khâm liệm và mai táng.
5-NGHI THỨC BAN ÂN GIẢI
NGHIỆP và THU THIÊN PHÁP:
NGHI THỨC BAN
ÂN GIẢI NGHIỆP
Thầy Lễ
dùng 1 ly nước đã cúng trên bàn thờ Cha-rồi mài 3 cái đinh sắt một lúc, cho vào
nước. Tác dụng của đinh sắt là bảo vệ và là một chất dẫn truyền. Sắt sẽ hóa
giải các thể vía xấu độc; sau đó niệm
Thần chú vào nước:
“Hộ Pháp Tái Tạo và các quân binh của Thần Chủ mệnh hộ trì đưa
linh hồn bản chủ về cảnh giới của mình--không đọa vào đường tà ác; dứt các
nghiệp ác, diệt hóa ma quỉ trong hồn xác- chúc cho vong hồn được siêu thoát,
được giải nghiệp, được đến cảnh giới an lạc; không được đến các cảnh giới đen
tối bẩn thỉu của ma quỷ, không đến gặp những vong hồn xấu xa…”
Lúc đó thì gọi là NƯỚC THÁNH BAN ÂN GIẢI
NGHIỆP.
Sau đó, lấy nước Thánh-rảy chấm 18 chấm vào thân xác
người chết: Lần lượt như sau: Luân xa
1-2-3-4-5-6-7 phía trước. Rồi chấm vào huyệt Thần đình-trên trán, 2 mắt;
huyệt Phong phủ sau gáy; huyệt Thiên Tông ở cạnh dưới 2 vai, huyệt Chương Môn 2 bên sườn và huyệt Kinh môn 2 bên hông. Chấm thứ 18 chấm
lên huyệt Tam âm giao hai chân đã
bó.
-Thầy Lễ phải thuộc các huyệt này. Tất cả con
cháu người chết phải đứng bên cạnh hai bên.
-Sau khi đã làm như trên, Thầy Lễ sẽ lấy một
cái Hồ Lô đỏ, giơ lên đỉnh
đầu người chết, niệm nhẩm: Thu Vía Nghiệp ác vào đây-Hóa-Hóa-Hóa-biến
mất!
THU THIÊN PHÁP
-QUÁN Ý NIỆM THIÊN PHÁP TRẤN VÀO TOÀN
BỘ XÁC CHẾT. \
-Nhẩm niệm trong đầu: Thiên Pháp của bản chủ này
giáng nhập xác, thu Pháp! Thần chủ Mệnh chấp lệnh!”
( Nếu
là người không luyện Thiên Pháp, thì cũng cứ nói niệm như thế, các thần chủ
mệnh trên cao của người đó sẽ xuống hộ trì).
-Đối với người không
là người Thiên Đạo-thì Thiên đình cũng
cho phép làm Lễ này-trong giai đoạn quá độ, cũng giúp cho vong nhanh siêu
hóa, không đọa vào đường ma quỉ-nên các hành giả Thiên Pháp tạm thời có thể làm
Thầy Lễ để độ cho chúng sinh, Thiên đình cũng chứng cho và còn gia trì thêm
công quả độ vong. Vong hồn đó cũng cám
ơn các con, nghiệp quả tốt cũng nhân lên.
III-LẬP LỄ TANG:
1-Làm
các thủ tục: Báo tang, lập ban lễ tang….(Việc
này tùy phong tục từng nơi mà làm)
2-Lập
một bàn thờ vong: ảnh, bát hương, hoa…(tùy
nơi mà làm, có thể có nước hoặc dân tộc không hương thì vẫn phải có ảnh, hoa).
3-Quan
tài đặt phía trước bàn thờ, đầu vào trong, hướng tùy nơi. Trên quan tài đặt một
Thiên Phù bằng gỗ nằm dọc quan tài.
Trước
quan tài có bàn lễ (hương án) phúng viếng. Xung quanh quan tài đặt 1 cây ớt có quả, nếu không có ớt thì đặt một cụm Tía Tô và ở
đầu quan tài đặt 72 lá trầu không.
Phong thủy xung quanh
phải thoáng đãng để phá âm khí.
4-Phát
tang.
Các
phần sau, tùy nơi tùy phong tục mà làm, không bắt buộc.
5-Lễ tang: Tùy phong tục và các
thủ tục địa phương.
6-Hỏa thiêu:
Sau
này, chủ yếu dùng hình thức hỏa táng cho
sạch sẽ và linh hồn nhanh siêu thoát.
Tất
cả các hài cốt đều HỎA THIÊU trong Lò thiêu đốt bằng củi, hoặc nhiên liệu
hoặc khí ga, không thiêu bằng nhiên liệu than đá hoặc xăng dầu. Thiêu xong, đưa
tro vào một bình và để dưới bàn thờ Thượng đế.
Những
trường hợp đặc biệt:
1-Trẻ con chết:-Không làm lễ phúng viếng. Nhưng vẫn phải lập bàn thờ, trình hồn, tụng kinh siêu thoát, lập bàn thờ vong.
2-Các trường hợp chết đặc biệt: Chết
trận, chết vì tai nạn, chết đuối mất xác…tùy phong tục mà làm, nhưng vẫn phải
có các nghi thức lập bàn thờ Cha, trình hồn, tụng kinh siêu thoát, lập bàn thờ
vong…Riêng chết mất xác phải làm thủ tục Chiêu hồn.
VII-LỄ QUI
HỒN VÀ LỄ CẦU SIÊU
LỄ QUI HỒN
Lễ
này làm sau khi đã hỏa táng. Có thể sau đó mấy ngày.
1-Lập bàn Lễ:
Thầy
Lễ làm Lễ, treo Thiên Phù ở giữa và treo
Thiên Kỳ bên phải. Bày 8 ly nước sạch-để làm nước Thánh Giải Nghiệp. Thắp 1
ngọn nến to và 3 ngọn nến trắng trên bàn thờ vong. Một đĩa muối, một đĩa gạo.
-Lại đặt lên bàn thờ một tấm Linh phù Tái Tạo-tấm
Linh phù có tác dụng trấn ma diệt quỉ lôi kéo đọa vào cảnh giới bẩn thỉu-đồng
thời làm Siêu thoát cho vong hồn người chết. Còn có tác dụng quan trọng là trấn
trị người chết vào giờ Trùng tang trùng phục rất tốt. Nên người chết vào giờ
trùng tang nên dùng phép này là được yên tâm.
2-Viết
Sớ tấu lên Hội Đồng Cai quản Vong Hồn và
Thần chủ Mệnh về việc có người vừa chết.
-Hình
thức in hình sớ như đã hướng dẫn.
-Nội
dung khấn:
Kính Thỉnh Hội Đồng Cai quản
Vong Hồn
và thần chủ Mệnh
Hôm nay chúng tôi làm
Lễ Qui Hồn của vong hồn người mới chết, họ tên là:…..
Kính thỉnh các thần
thánh xuống tiếp dẫn linh hồn người mất cho đi siêu thoát, cho đi học hỏi, cho
về cõi giới tốt, không để lạc vào cõi ma
quỉ lôi kéo, hoặc để linh hồn vất vưởng đau khổ. Kẻ có tội mong Hội đồng xem
xét.
3-Dùng gạo muối tiễn vong về cảnh giới:
Niệm: Các
thần thánh và Thần chủ Mệnh tiếp dẫn
vong linh về cảnh giới của mình…ném gạo và muối ra ngoài vườn, sân,
ngõ.
LỄ CẦU SIÊU
-Sau
khi làm Lễ Qui Hồn thì làm Lễ Cầu Siêu ngay sau đó.
-Toàn thể con cháu gia chủ, người con trưởng hoặc đại diện, làm lễ Rước
Nến Linh hồn trên một cái đĩa trắng đưa lên bàn thờ Thượng đế-Thắp trên bàn thờ
Thượng đế 7 ngọn nến Đỏ; để Nến Linh hồn bên dưới 7 ngón nến đó.
Nếu là phụ nữ để bên trái bàn thờ-nhìn từ ngoài vào
và nếu là nam giới thì để bên phải. ( Nữ âm tả trái, Nam dương hữu phải-nhìn từ
trong ra).
-Mọi người quỳ
trước bàn thờ Cha và ĐỌC KINH KÍNH ƠN CHA-KINH KÍNH ƠN MẪU VƯƠNG. Đọc xong, tất
cả quỳ lạy 9 lạy.
-Khi đọc xong hai Kinh này, thì Thầy Lễ đọc-viết
ra giấy:
“Kính ơn
Cha Mẹ Trời đã tạo tác hồn xác người
này. Mong linh hồn này siêu thoát,
biết Kính ơn Cha Mẹ Trời, biết trả ơn Cha Mẹ Trời”.
-Sau đó để tờ giấy đó ở bên cạnh Nến Linh Hồn của
người chết. ( Sau này, bàn thờ người chết
có ảnh, thì đặt ngay dưới Thiên Phù và Nến Linh hồn thì có thể thay bằng nến
điện hoặc linh hồn đó về trụ vào tờ giấy cũng được. Phép này tạm độ cho các con
hiện nay, sau này thời Thánh Đức không thờ người chết, trong nhà không có bàn
thờ nào khác ngoài thờ Cha Mẹ Trời).
-SAU ĐÓ Thầy Lễ đọc
KINH SIÊU THOÁT CHO VONG HỒN.
Kinh Siêu thoát cho vong:
“Này vong………….( tên )
Sinh
thời giáng hạ làm người
Phúc
tai đủ cả duyên đời trần ai
Linh
hồn qua kiếp đầu thai
Nay
rời trần thế có sai bao giờ
Mới
hay luật quả luân hồi
Rõ Cha, rõ Mẹ, rõ Vua Thiên
đình
Cha sinh ra cả chúng mình
Cho luân các kiếp với tình
cao sâu
Bây giờ vong đã quy đầu
Chớ tham tục giới còn đâu là
nhà
Bao nhiêu tham tục đã qua
Bao nhiêu cay khổ vậy là xong
xuôi
Chớ tham vật dục ở đời
Bây giờ chết bỏ có mời được
đâu!
Không ăn, không uống, không
cầu
Chỉ còn linh giác cảnh chầu
Thiên Linh!
Bỏ ngay cơn khát vô minh
Nhanh nhanh theo gót Thần minh
về Trời
Tu tập ở các cảnh rồi
Sau thành chính giác để rồi
lại sinh….
Quả công đo đếm thực tình
Cháu con nhận được cái linh
của người
Cấm làm hại vật hại người!
Không được bỏ đạo mà rơi vào
tà
Bây giờ theo phép Trên là:
Xin binh, xin tướng xuống đà
đưa đi
Cho vào siêu phép thoát đi
Thoát gánh nặng vía, thoát mê cõi trần
Cho được thanh thản vong nhân
Được thánh chính quả thánh
thần ngày sau!”
Ghi chú:
LỄ CẦU
SIÊU CHUNG CHO NHIỀU VONG HỒN HOẶC MỘT VONG HỒN:
Cách tiến hành như trên-nhưng có thể làm các
lễ vật phẩm và lập bàn thờ Trời, có thể làm ngoài sân, ngoài trời.
Thắp các Nến Linh hồn lên, mỗi Linh hồn một
nến, nếu không rõ số lượng thì thắp 72 nến trắng, rồi làm lễ, đọc các Kinh như
trên.
PHÉP
VIII-PHÉP HÔN LỄ
Người
cưới, sau khi đi đăng ký tại chính quyền sở tại xong, trước khi làm lễ cưới cả
hai người phải cùng làm Lễ tấu sớ lên:
THẦN THÁNH QUẢN GIA ĐẠO VÀ THẦN CHỦ MỆNH để các thần thánh chứng cho.
Cách
làm lễ trên bàn thờ như đã hướng dẫn. Có Thiên Phù, 7 ngọn nến ở bên dưới chính
giữa. Có để một ly RƯỢU THỀ HẠNH PHÚC.
Tấu sớ: “Kính thỉnh THẦN THÁNH QUẢN GIA ĐẠO VÀ THẦN CHỦ MỆNH giáng lâm!
Hôm nay là
ngày…………………chúng con thành tâm lập lễ thề trước THẦN THÁNH QUẢN GIA ĐẠO VÀ THẦN
CHỦ MỆNH. Xin chứng giám, chúng con xin
nguyện sống yêu thương nhau và chung thủy trọn đời. Xin ban cho chúng con hạnh phúc, con cái, an
vui…”.
-Uống
chung một ly rượu phép đó, gọi là RƯỢU THỀ HẠNH PHÚC, để cầu hạnh phúc may mắn.
( Tất nhiên tâm sở cầu thế nào, thì cuộc đời đôi khi sẽ đạt như thế, bởi nguyên
lý tất cả do Tâm mà ra).
-Sau
đó tổ chức cưới như phong tục riêng của địa phương.
Hình thức sớ, theo mẫu qui định ở dưới.
PHÉP IX-PHÉP LỄ CHO TRẺ SƠ SINH
Trẻ
mới sinh ra, đủ cữ ( con trai 7 ngày; con gái 8 ngày), được làm lễ tấu lên THẦN CHỦ MỆNH của trẻ đó.
-
Dùng nước phép để lau mặt: Lấy một cốc nước để trên bàn thờ Thượng đế và sau đó
lấy 3 đinh sắt mài ra, cho vào nước, sau đó lấy nước đó, chấm lên luân xa 6 của
trẻ ba lần.
-Sau
đó tấu sớ trước bàn thờ Thượng đế.
Nội dung:
“Kính
thỉnh Hội đồng thần thánh gia đình; Kính thỉnh THẦN CHỦ MỆNH của con trẻ giáng lâm!
Hôm nay
là ngày…………………chúng con thành tâm lập lễ thề trước các thần thánh, xin các thần
thánh chứng giám:
Họ tên….sinh con, vào
ngày…. xin chứng tên cho cháu là….
Kính ơn Thượng đế và
các thần thánh đã cho sinh linh đầu thai giáng hạ. Xin các Thần thánh hộ trì,
bảo vệ…”.
Hình thức sớ, theo mẫu qui định ở dưới.
Sau này, Chín
Phép Lễ này bất di bất dịch, thực hiện nghiêm không được phá bỏ phép nào.
Thờ
Cha tại gia, tu tại nhà, sống đạo đời hợp nhất, thực hiện xây Thiên đường tại
thế Đại Đồng, nên mọi phép Lễ không có gì bí hiểm, phải thực hiện nghiêm túc,
không mê tín dị đoan.
*******************************