1.- Ý nghĩa “đại đồng”.
Trong “Hán Việt Từ Điển Trích Dẫn” có định nghĩa về chữ “đại đồng” như sau:
1.
Đời thịnh trị, hoàn toàn hòa bình an lạc. Bốn biển một nhà,
không phân biệt màu da hay quốc tịch, công cộng, như nhau cả. Như: thế giới
đại đồng.
2.
Trời đất, vạn vật hợp với người làm một, gọi là đại đồng.
Tưởng tượng có ngày nào đó,
trên toàn toàn thế giới, mọi người cùng sống hoà đồng, ai cũng làm việc để góp
phần phục vụ người như phục vụ chính bản thân mình, chứ không tranh giành thu
tích cho riêng mình, mọi người ai cũng yêu thương giúp đỡ chăm sóc đùm bọc nhau
như với người thân của mình hay như chăm sóc chính bản thân mình..., khi ấy mọi
người đều hoàn toàn bình đẳng, không hơn thua, không cao thấp, không phân biệt
thân sơ, không phân biệt chủng tộc hay màu da, già trẻ, nam nữ…, không phân
ranh giới nước này nước kia mà tất cả hoà đồng như một nhà…. “Bình đẳng” không
phải là mọi người hoàn toàn giống nhau mọi mặt, mà là mỗi người có khả năng
trời phú như thế nào, có thể khác nhau, nhưng ai cũng đưa hết khả năng ấy vào
phục vụ cho toàn thể, giống như các thành phần của một cơ thể tuy mỗi thứ không
hề giống nhau kể cả hình dáng lẫn chức năng, nhưng tất cả đều phục vụ cho MỘT
cơ thể chung, theo khả năng và chức năng của nó, không kể công không tị hiềm
không hơn thua, không cao thấp… Được như thế thì thế giới không còn tranh giành
xung đột, không chinh chiến, mọi người đều được sống an lạc, hạnh phúc, không
ai phải cô đơn đau khổ. Thế giới như thế gọi là... thế giới đại đồng. [1]
Nghĩa lý thuyết của “đại
đồng” thực ra còn rộng lớn hơn nữa: ngoài chuyện người với người hoà đồng như
MỘT [2] , mà cả giữa người với vạn
vật vũ trụ thiên nhiên cũng hoà đồng cùng nhau, cũng vẫn có thể ví như
thân thể một con người gồm những thành phần khác về hình thái và chức
năng nhưng vẫn cùng MỘT cơ thể chung cùng hoạt động theo chức năng để phục vụ
cho cơ thể chung đó. Và như vậy mọi người đều có hành động giúp đỡ và bảo vệ
lẫn nhau một cách tự nhiên, bảo vệ cả môi trường sống, bảo vệ sự tồn tại lành
mạnh của thiên nhiên vũ trụ, để cùng sống và phát triền trong an bình.
Đấy cũng gọi là “đại đồng”, theo nghĩa rộng.
Trong sách Kinh Lễ, Khổng Tử cũng mơ tưởng về cái “thế giới
đại đồng” ấy, giữa con người và con người, diễn nghĩa như sau (trích “Cổ Học Tinh Hoa” của Nguyễn Văn Ngọc và Trần
Lê Nhân - Ghi chú: đoạn chữ màu đen trong [....] là ghi
chú thêm theo cách hiểu của người viết):
Đường lối chính trị rất cao cả mà thực hành thì
thiên hạ phải là của chung của cả thiên hạ [nguyên văn:
"Đại Đạo chi hành dã, thiên
hạ vi công" – [ Đại Đạo mà thi hành được thì thiên
hạ là của chung], không một người nào hay một
nước nào được nhận thiên hạ làm của riêng mình. Kén chọn người có đức vọng để
làm lãnh đạo, tuyển cử người có tài năng để ra gánh vác. Giao thiệp đi lại với
nhau cho có chữ “tín” lỡ có hiểu lầm nhau phải phân trần ngay... Ăn ở đối đãi
với nhau cần phải “hòa” lỡ có chênh lệch [thiên vị, thiên
lệch, phân biệt] phải sửa đổi ngay. Có thế, tự khắc ai ai cũng đều
tôn quý cha mẹ người như cha mẹ mình, ai ai cũng thân yêu con cái người như con
cái mình [nói rộng ra ai ai cũng “yêu người như yêu chính
bản thân mình”]...
Của ở trên mặt đất hay ở dưới mặt đất [của cải có sẵn hay tiềm tàng trong thiên nhiên], đáng ghét nhất là ngu dại bỏ phí bỏ hoài, không biết tăng gia, không
biết khai thác, không biết lợi dụng. Có biết mà làm được, cần phải cùng hưởng,
cùng dùng, chớ có vơ cả làm của riêng. [không để của
cải tiềm tàng trong thiên nhiên bị bỏ phí phạm, mà khai thác để sử dụng, ví dụ
khai khẩn đất hoang để trồng cấy, khai thác quặng mỏ để có nguyên liệu sản xuất
hàng tiêu dùng …, để nâng cao đời sống chung. Của cải ấy tiềm tàng trong thiên
nhiên (hay là do Trời, do Đấng Tạo hoá, do Thiên chúa… tạo ra, tùy theo niềm
tin và ngôn ngữ), nên phải coi là của chung cho mọi người chứ không phải thu
tích cho riêng mình]
Đã là người thời chẳng nhiều thì ít, ai cũng có
sức lực và năng lực, đáng ghét nhất là lười biếng, chỉ thích ỷ lại hay thích
đài đệ, không chịu dùng sức mình để cung cấp, không chịu đem năng lực để đảm
nhiệm công việc chung. Như việc dùng sức lực hay năng lực, cần phải cống hiến
cho quần chúng, chớ có làm hay riêng cho bản thân là cá nhân… [ai cũng có năng lực nào
đó được Trời phú cho, tất cả đều tự nguyện làm theo năng lực của mình để phục
vụ chung chứ không phải thu tích cho riêng mình]
Có thế thời cơ mưu gian trá mới không nẩy ra và
trộm cướp tự nhiên tiêu diệt [không vì tư lợi, không lòng
vị kỷ, không tâm phân biệt, thì không có tranh giành cho mình nên không cần cần
tới cơ mưu gian trá, do đó không còn trộm cướp, tranh giành và chinh chiến]
Đại khái như thế mới gọi là “ đại đồng”. (Lễ Ký)
Có thể tóm tắt, tinh thần của những con người
trong thế giới đại đồng gồm trong tính chất “tâm bình đẳng”, “tâm không phân
biệt”, nghĩa là không một chút thiên lệch trong đối xử với nhau, không còn tính
vị kỷ mà vị tha, chăm lo phục vụ mọi người như chăm lo cho người thân của mình
hay cho chính bản thân mình, làm theo năng lực của mình nhưng không thu tích
cho riêng mình mà để phục vụ chung cho mọi người cũng như phục vụ cho mình.
Thế nhưng trong thế giới con người, từ xưa tới
nay, hầu như ai ai cũng mang tính vị kỷ nên thiên lệch, ai cũng hành động vì
lợi ích của mình là chính, lấy tư lợi làm động lực cho hành động, và coi đó là
sự tự nhiên, và cho rằng Trời đã sinh ra như
thế. Và vì thế mà người ta đều nghĩ rằng nếu bỏ đi lòng vị kỷ, không còn vì tư
lợi, chẳng có hơn thua cao thấp thì thực là
buồn nản, và sẽ mất cái động lực để làm
việc và hậu quả sẽ là một thế giới đi lùi dần, mà lùi dần thì sẽ đi về
diệt vong. Như vậy thì cái thế giới gọi là đại đồng này chỉ là một sự hoang
tưởng, một giấc mơ của những người đang sống trong một thế giới tranh giành
nhọc nhằn và khốn khổ. Và người ta cho rằng thế giới ấy là không tưởng.
Tuy vậy, cũng có những vị cho rằng có thể thực
hiện được cái thế giới ấy, ví dụ như Khổng Tử, nên vẽ ra và mơ có ngày nó thành
hiện thực, và tìm đường để đưa cả thế giới hướng đến đó. Và cạnh đó, cũng có
những người tuy không tự mình vẽ ra, nhưng thấy nét vẽ ấy cũng nên xem và đáng
suy nghĩ; tuy nhiên vì trong cuộc sống phải lăn lộn với tranh giành hơn thua,
thắng bại…, nên những lý lẽ ấy chẳng đứng vững khiến cũng ngờ rằng chẳng thể.
Còn phần lớn người còn lại thì sẽ chỉ... phì cười mà nhạo báng cho là chuyện
không tưởng viễn vông vô lý.
ĐẠO của Lão Tử cũng được ông diễn giải như thế,
nghĩa là khi mọi người đạt ĐẠO thì thế giới con người tương tự như thế giới đại
đồng vậy (xin dẫn giải bên dưới), và Lão Tử cũng tiên đoán trước về thái độ của
con người đối với ĐẠO, rằng:
- “Bậc thượng trí
mà nghe ĐẠO thì cố gắng tìm cách thi hành,
- người bậc trung nghe ĐẠO thì nửa tin nửa
ngờ khi còn khi mất (không vững lòng tin),
- Còn kẻ phàm phu hạ trí khi nghe ĐẠO thì... cười
phá lên [chế diễu vì cho là viển vông, vô lý, không
tưởng]”
không cười thì sao đủ gọi được … là ĐẠO. (ĐĐK.41), bởi vì “lời hợp ĐẠO mà nghe như ngược đời!”
Và, xưa cũng như nay, cũng chẳng có mấy người lại
không... cười khi nghe tới chuyện rằng một mai sẽ có một thế giới đại đồng như
vậy. Vì thực tế cho thấy là từ thời Khổng Tử tới nay đã trên hai ngàn năm trăm
năm rồi cũng chẳng thấy thế giới đại đồng đâu, mà người ta vẫn áp dụng “đạo của
người” thay vì “đạo của Trời” theo cách nói của Lão Tử: “Theo đạo Trời thì sẽ
chan hoà cùng nhau, mình có hơn thì lấy bù cho người khác thiếu thốn hơn mình.
Còn theo đạo người, tức thói đời, thì tuy mình đã có dư dả rồi nhưng vẫn tìm
cách lấy của người thiếu thốn để cho mình thêm dư (ĐĐK.77). (Và gần đây,
người ta cũng đã thấy và cũng đã ... phì cười khi tận mắt chứng kiến
công cuộc xây dựng thế giới đại đồng của những người cộng sản)
Tuy vậy hình ảnh “thế giới đại đồng” cũng vẫn lấp
ló đâu đó trong những triết lý và kinh sách của các tôn giáo.
2.- Hình ảnh của “thế giới đại đồng” trong các
tôn giáo, triết lý, và trong chủ thuyết cộng sản.
Dưới đây, quí vị lại thấy người viết lập lại
những câu kinh kệ cũ đã nói trong các bài trước. Bởi vì người viết chỉ nhắm tới
cái đích (ĐẠO) của tôn giáo, xem nó là gì. Mà cái đích thì ví như đỉnh của ngọn
núi, và đã là cái đỉnh thì chỉ tượng trưng bằng một điểm nên nó gọn gàng vắn
tắt. Còn “đạo” là chỉ những con đường từ những điểm khác nhau nơi chân
núi hướng tới cái đích là đỉnh núi là ĐẠO. Những con đường ấy mới là đa dạng,
phức tạp vì con người mà “đạo” dẫn dắt thì đa dạng và phức tạp . Vì vậy mà ta
thấy có muôn vàn kinh kệ, sách triết lý nói về những con đường (đạo) leo lên
đỉnh (ĐẠO). Phương pháp đúng thì hướng dẫn người ta leo theo hướng đi lên đỉnh,
gọi là “chánh đạo”. Nhưng bên cạnh đó chẳng phải là không có những con đường
nhắm hướng sai lầm, có thể gọi là “tà đạo”, không những chẳng tới được đích là
đỉnh núi mà còn đẩy người ta... đâm đầu xuống vực thẳm, kiểu như “mù mà dắt mù
thì cả hai sẽ lăn cù xuống hố” vậy.
2.1.- Lão Tử: Cái
đích của đạo Lão gọi tắt là ĐẠO. Tính chất của ĐẠO là (cũng như những bài
trước, người viết dùng chữ ĐẠO để chỉ cái đích đến, còn “đạo” để chỉ đường đi
đến cái đích [2]):
- Không thu tích cho mình, làm nhưng mà không tranh giành cho mình (Thánh nhân bất tích,...., Thánh nhân chi ĐẠO vi nhi bất tranh (ĐĐK.81).
- Không thu tích cho mình, làm nhưng mà không tranh giành cho mình (Thánh nhân bất tích,...., Thánh nhân chi ĐẠO vi nhi bất tranh (ĐĐK.81).
- Không làm chỉ vì tư lợi mà
không gì không làm để phục vụ cho lợi ích và hạnh phúc của mọi người (ĐẠO thường vô vi, nhi vô bất vi (ĐĐK.37): làm
với hết khả năng của mình để phục vụ cho .. thiên hạ chứ không phải tom góp ôm
giữ cho riêng mình. Hành động như thế được cho là nguồn hạnh phúc thật của cá
nhân mỗi người và cả tập thể con người. Thế nên đạo của Lão Tử gọi là “đạo vô
vi” và tới cái đích là “ĐẠO vô vi”
- ĐẠO của Trời là bớt chỗ dư
mà bù nơi thiếu, tức là san sẻ những gì mình làm ra cho những người thiếu thốn
hơn mình để tạo thành sự ngang bằng tuyệt đối giữa người và người (tức bình
đẳng). Ai làm được như thế chính là người đắc ĐẠO. (ĐĐK.77)
Như vậy, ĐẠO có thể tóm tắt bằng cụm từ “tâm bình
đẳng” hay tâm “không phân biệt”. Nếu tất cả mọi người trên thế giới mà đạt ĐẠO,
tức là đạt được tâm bình đẳng hay tâm không phân biệt thì đó chính là “thế giới
đại đồng”, giống như diễn giải của Không Tử nói trên. Chữ “huyền
đồng” của Lão Tử nói trong Đạo
Đức Kinh cũng tương tự như chữ “đại đồng” nói trên, nghĩa là mọi người hoàn
toàn bình đẳng, như nhau, không phân biệt..
Tư tưởng Trang Tử cũng gần với Lão Tử, nên ta
thường thấy nói gộp chung là tư tưởng Lão - Trang. Trong Nam Hoa Kinh của Trang
Tử, chương “Tề Vật Luận” (Mọi Vật Ngang Nhau), ông cũng bàn về lẽ vạn vật kể cả
mọi con người đều ngang bằng như nhau, cũng là ý nghĩa “đại đồng”.
2.2.- Đạo Phật: cái
đích (đạo quả, hay ĐẠO) của đạo Phật là đạt “Vô thượng, chánh đẳng, chánh
giác”, một cách nói khác của Niết bàn.
Ý nghĩa của đạo quả “Vô thượng, Chánh đẳng, Chánh
giác” ấy là:
- “Vô thượng” là không còn
phân biệt cao/thấp (vô hữu cao hạ) [3] , suy rộng thêm là không phân biệt ta/người, ta/chúng sinh,
không yêu/ghét (không yêu người này ghét kẻ kia)…, không phân biệt thân/sơ,
khinh/trọng, chủng tộc, nước này nước kia…, không hơn thua, cao thấp…, mà mọi
người đều bình đẳng.
- Chánh đẳng: là tuyệt đối bình đẳng giữa người
và người, giữa người cùng chúng sinh vạn vật.
- Chánh giác: khi đạt tới tâm tuyệt đối bình đẳng
như trên là giác ngộ chân chánh.
Cái đạo quả “Vô thượng, chánh đẳng, chánh giác”
cũng chính là Niết bàn vậy. Bởi vì khi đã đạt tới tâm bình đẳng thì không còn
phân biệt hơn thua, cao thấp… nên không còn tham lam, sân hận, si mê; và
trong kinh Tương Ưng ghi rằng “đoạn tận tham, đoạn tận sân,
đoạn tận si là Niết bàn”. Cũng nên ghi thêm rằng trong kinh Tương Ưng nói
“đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si là vô
vi”. Vậy đạt tới đạo quả “Vô thượng, chánh đẳng,
chánh giác” cũng là đạt tới tâm bình đẳng tuyệt đối và cũng chính là ĐẠO vô vi,
là Niết bàn vậy.
Nếu ai ai cũng đạt được, và đối xử với nhau bằng
tâm bình đẳng, không phân biệt (vô thượng, chánh đẳng), thì thế giới ấy
cũng chính là thế giới đại đồng như Không Tử nói, và đó cũng là ý nghĩa ĐẠO vô
vi của Lão Tử vậy.
“ĐẠO lớn không khó với ai không phân biệt;
Không còn yêu ghét thì mọi sự đều sáng tỏ, minh
bạch.” (Tăng Xán-Tín Tâm Minh)
Vậy thì nghĩa của Niết bàn cũng cùng nghĩa với
“thế giới đại đồng” vậy. Nếu nói về một cá nhân, thì khi đạt tới “vô thượng,
chánh đẳng” rồi thì cũng thoát khỏi tham sân si và đạt tới tình trạng tâm hồn
nhẹ nhàng thơ thới không còn bị vướng mắc ràng buộc gì cho cái ta, thì đó là
giải thoát là Niết bàn, vì “tân diệt tham sân si là Niết bàn”, là giác ngộ chân
chánh. Còn nói chung, trong xã hội con người nếu ai cũng đạt tới “vô thượng,
chánh đẳng” thì đó cũng là Niết bàn của toàn xã hội, hay “thế giới đại đồng”.
2.3.- Mặc Tử:
Mặc Tử chủ trương thuyết kiêm ái, nghĩa là yêu
tất cả mọi người như nhau như bản thân mình (“ái nhân nhược ái kỳ thân”). Như
vậy là bình đẳng tuyệt đối, không còn gì phân biệt giữa người với người.
Tóm tắt lý luận về kiêm ái như sau: Nếu mọi con
người trên thế gian này ai cũng yêu người như yêu chính bản thân mình, từ trong
gia đình ra tới xã hội, thì chẳng còn chuyện bất hiếu, bất từ. Vì ai cũng quí nhà người như nhà mình, của người như của mình, thân
người như thân mình, nên chẳng còn trộm cướp, xung đột, tranh giành. Mở rộng
thêm ra, ai cũng coi nước người như nước mình, thì cũng chẳng còn xung đột
chiến tranh để đánh chiếm nước này nước kia. Khi đã yêu quí người như yêu quí
mình thì ai cũng chăm lo cho người mình yêu quí (nghĩa là chăm lo cho tất cả mọi người như nhau, như chăm lo cho gia
đình, chăm lo cho chính bản thân mình) thì người ta sẽ đem hết năng lực của
mình ra làm lụng để phục vụ nhau, từ đứa trẻ mồ côi cho tới người gia nua cô
quả đều được chăm sóc đầy đủ, không còn tiếng khóc và tiếng kêu đau khổ…
Thế giới mà ông tưởng tượng như thế cũng là “đại
đồng”.
2.4.- Ki-tô giáo:
Trong Kitô giáo nói riêng hay Thiên Chúa giáo nói chung, ai cũng đã từng nghe lời dạy rằng: “hãy yêu tha nhân như yêu chính bản thân mình” trong cả cựu ước và nhấn mạnh nhiều lần trong tân ước. Yêu người như mình thì bình đẳng, không tranh giành, không trộm cướp, không gian dối lừa đảo, không xung đột chiến tranh, mà sống hoà đồng cùng nhau… như “đại đồng” nói trên. Xã hội ấy như một ước mơ, và được tiên đoán từ thời cựu ước:
"Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa (tức Nước Trời)( Lưu ý Nước Trời tại thế)
đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, (Nước Trời là nơi cao tột đỉnh của an lành và hạnh phúc)
vươn mình trên hết mọi ngọn đồi,
dân dân lũ lượt đưa nhau tới.
…………
Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia
và phân xử cho muôn dân tộc.
Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày,
rèn giáo mác nên liềm nên hái.
Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau,
và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến… (Isaiah 2:2-4)
đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, (Nước Trời là nơi cao tột đỉnh của an lành và hạnh phúc)
vươn mình trên hết mọi ngọn đồi,
dân dân lũ lượt đưa nhau tới.
…………
Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia
và phân xử cho muôn dân tộc.
Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày,
rèn giáo mác nên liềm nên hái.
Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau,
và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến… (Isaiah 2:2-4)
Và cuộc sống khi ấy trở về sau, người người sẽ
chan hoà không còn phân biệt người này người khác, dân này dân kia, chủng tộc
này chủng tộc nọ, nước này nước kia, không phân già trẻ, lớn bé, không phân
biệt kẻ khéo giỏi hay người tật nguyền, chẳng còn phân giàu nghèo..., chẳng còn
vung kiếm (mà ngày nay là súng đạn mìn bom...) đánh nhau, bỏ nghề chinh chiến
mà chung sống cùng nhau bình đẳng trong tình yêu thương:
Từ gốc rễ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ,
từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. (tức chúa Giê-su [4])
(với sự dẫn dắt của chúa Giê-su, tương lai thế giới sẽ là…:)
từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. (tức chúa Giê-su [4])
(với sự dẫn dắt của chúa Giê-su, tương lai thế giới sẽ là…:)
Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê
nhỏ.
Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau,
một cậu bé sẽ chăn dắt chúng.
Bò cái kết thân cùng gấu cái,
con của chúng nằm chung một chỗ,
sư tử cùng ăn rơm như bò.
Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục,
trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang.
Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta,
vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này,
cũng như nước lấp đầy lòng biển. (Isaiah 11:1-9)
Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau,
một cậu bé sẽ chăn dắt chúng.
Bò cái kết thân cùng gấu cái,
con của chúng nằm chung một chỗ,
sư tử cùng ăn rơm như bò.
Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục,
trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang.
Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta,
vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này,
cũng như nước lấp đầy lòng biển. (Isaiah 11:1-9)
Hình ảnh của giấc mơ như thế cũng chẳng khác thế
giới đại đồng của Khổng Tử. Tất cả đều bình đẳng tuyệt đối, không còn phân biệt
ta/người, hơn/thua, cao/thấp…. mà sống hoà đồng cùng nhau trong hạnh phúc an
bình. Sự bình đẳng toàn được ví như bạt núi đồi
lấp đầy thung lũng, nơi lỗi lõm hoá thành đồng bằng vậy: “Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi
lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ vinh
quang Ðức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng Ðức
Chúa đã tuyên phán." (Isaiah 40:4-5), câu văn này còn cho thấy
tạo được sự công bằng thật là khó khăn cần nhiều
nỗ lực và quyết tâm vượt gian khổ.
Hình ảnh một cộng đồng giống "xã hội đại đồng" như thế
cũng có được đề cập trong tân ước, nói về tổ chức cộng đoàn tín hữu đầu
tiên:
"Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo mà chỉ có một lòng một ý.
Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ tất cả là
của chung. Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các tông đồ làm chứng chúa
Giê-su sống lại. Và Thiên Chúa ban cho các ông dồi dào ân sủng. Trong cộng
đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả nhưng người có ruộng đất nhà cửa đều
bán đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các tông đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi
người tùy theo nhu cầu" (Công Vụ Tông Đồ 4:32-35)
2.5.- Hình ảnh đại đồng trong chủ thuyết cộng sản.
Ngày nay người ta cũng mượn cụm từ “thế giới đại đồng” để gọi (có pha
chút châm biếm) cái đích đến lý thuyết của chủ
nghĩa cộng sản hay “thiên đường cộng sản”. Vì rằng, theo lý thuyết thì khi đạt
tới cái đích cộng sản thì mọi người hoàn toàn bình đẳng, ai cũng rời bỏ
sự tư hữu (không còn lòng tư dục, không tính tư lợi, không còn tư hữu) vì
rằng “chủ thuyết của những người cộng sản chỉ tóm tắt
vào một câu đơn giản là: triệt tiêu sự tư hữu” (Tuyên
ngôn của đảng Cộng Sản). Khi ấy mọi người ai cũng như ai hoàn toàn bình đẳng về
đời sống vật chất cũng như tinh thần, thế giới cũng chẳng còn biên cương phân
chia nước này nước nọ, không còn phân biệt chủng tộc, mà hoà đồng như nhau…,
tất cả mọi người tự nhiên “làm theo năng lực hưởng theo
nhu cầu”, người hốt rác hay nhà khoa học cũng đều làm
việc theo chuyên môn và sức lực của mình, và nhu cầu để sinh sống ngang nhau.
Làm theo năng lực tức là mọi người đem hết tài trí và sức lực ra phục vụ xã
hội, nên của cải sản xuất tuôn ra... như nước nguồn không hề cạn, đáp ứng đầy
đủ nhu cầu của mọi người. Thế giới mà được như thế thì an lành hạnh phúc, là
thế giới đại đồng theo như giác mơ của Khổng Tử….
*
*
*
Tuy bị cười vì không tưởng, vì mơ mộng hão huyền
nhưng xét ra thì đó lại là cái đích chung của các tôn giáo: một thế giới bình
đẳng giữa người và người, không phân biệt, ai cũng yêu thương và bao bọc nhau
như chính bản thân mình vậy; tất cả như MỘT, ai cũng nỗ lực một cách tự nhiên
để làm việc y như làm vì tư lợi, nhưng lại... không phải vì tư lợi mà chan hoà
cho cả thiên hạ. Trên lý thuyết nếu đạt được tới đó thì hiển nhiên là không còn
tranh giành xung đột mà an lành hạnh phúc, đó là chân lý chung. Có khác chăng
là phương pháp và con đường dẫn đi tới đích. Thế nên Khổng Tử mới nói rằng “Thiên hạ đồng qui nhi thù đồ” (5) , nghĩa là thiên hạ cùng đi về một cái đích
nhưng theo các con đường khác nhau.
Cùng một đích đến, chỉ có khác nhau đường đi mà tôn giáo này đụng độ tôn giáo kia, thậm chí
đã có lúc muốn tiêu diệt lẫn nhau, và ngày nay những người theo “đạo” cộng sản
(tức con đường đi của
chủ nghĩa cộng sản) cũng muốn tiêu diệt tôn
giáo vì coi như một sự cản đường tiến của họ. Nên nếu có cười thì chắc thánh
nhân sẽ... cười buồn vì lẽ ấy.
….Thế nên Lão Tử mới nói: “thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu”, lòng tư dục
đưa tới sự chia lìa phân biệt, và trái lại “thường vô dục dĩ
quan kỳ diệu”, còn lòng vô dục mới đưa tới sự diệu kỳ (ĐĐK.1).
Kinh thánh tân ước thì dẫn giải về chiến tranh
như sau: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa
anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong
con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém
giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây
chiến với nhau. Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không
được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc.” (Gia cơ 4:1-3).
Còn đức Phật:
-"Một nguyên nhân nữa của đấu tranh và xung
đột là sự so sánh giữa ta và người, xem các người khác là bằng ta, hay hơn ta
hay thua ta". (Tương Ưng I.15), nghĩa là chiến tranh khởi chỉ vì tâm phân biệt ta người, hơn thua, cao
thấp...
- "Lại nữa,
này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do
chính dục làm nhân, vua tranh đoạt với vua, Sát-đế-lỵ tranh đoạt với Sát-đế-lỵ,
Bà-la-môn tranh đoạt với Bà-la-môn, gia chủ tranh đoạt với gia chủ; mẹ tranh
đoạt với con, con tranh đoạt với mẹ; cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với
cha; anh em tranh đoạt với anh em; anh tranh đoạt với chị; chị tranh đoạt với
anh; bạn bè tranh đoạt với bạn bè. Khi chúng dấn mình vào tranh chấp, tranh
luận, tranh đoạt, chúng tấn công nhau bằng tay, chúng tấn công nhau bằng gạch
đá, chúng tấn công nhau bằng gậy gộc, chúng tấn công nhau bằng đao kiếm. Ở đây,
chúng đi đến tử vong, đi đến đau khổ gần như tử vong". (Trung Bộ I. 87)
…...
- “Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính
dục làm nhân, chúng cầm mâu và thuẫn, chúng đeo cung và tên, chúng dàn trận hai
mặt và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém
nhau. Chúng bắn, đâm nhau bằng tên, chúng quăng, đâm nhau bằng đao, chúng chặt
đầu nhau bằng kiếm. Ở đây, chúng đi đến tử vong, đi đến đau khổ gần như tử
vong". (Trung Bộ I. 87A).
Giữ tâm không phân biệt, bớt
tư lợi tư dục, giữ lòng bình đẳng
giữa người với người mới là
hướng với “đại đồng”. Ngày nay sự đề xuất
và nỗ lực "toàn cầu hoá" của một số nước phát
triển có vẻ như cũng là một bước đi tới, tuy mới
sơ khai.
Cũng vẫn "viết
để... mà chơi" thôi, vì đó mới chỉ là lý thuyết ./.
Tác giả Duy Đức. Jul/19/2014
GHI CHÚ:
[1] Có lẽ tương đương với ý niệm về xã hội “xã hội chủ nghĩa” và cao hơn là xã hội "cộng sản chủ nghĩa" (hay "thiên đường cộng sản") là cái đích của người chủ trương chủ nghĩa cộng sản.
[1] Có lẽ tương đương với ý niệm về xã hội “xã hội chủ nghĩa” và cao hơn là xã hội "cộng sản chủ nghĩa" (hay "thiên đường cộng sản") là cái đích của người chủ trương chủ nghĩa cộng sản.
[2] Tuy phân ra ĐẠO là cái
đích và, “đạo” là đường đi dẫn tới cái đích, nhưng ý nghĩa cũng gần giống nhau
thành ra cũng có thể lẫn lộn.
Ví dụ:
1/ khi nói “tận diệt tham, sân, si là Niết bàn”
thì ý nghĩa cho cả “đạo” và “ĐẠO”: 1/ khi đạt tới ĐẠO (Niết bàn) thì người ta
không còn tham sân si nữa, một cách tự nhiên; và 2/ muốn đạt tới ĐẠO (tức Niết
bàn) thì ta phải thực hành bỏ tham sân si bằng các phương pháp Phật dạy (gọi là
Phật pháp), ví dụ như bố thí, trì giới, tinh tấn… chánh kiến, chánh ngữ…; đó là
con đường (đạo) đức Phật dạy gọi là đạo Phật, để tiến tới ĐẠO.
2/ thêm ví dụ như “Vô thượng, chánh đẳng, chánh
giác”, trong kinh Kim Cang nói vừa là “pháp” (phương pháp, Phật pháp,
hay là “đạo” tức là đường đi) vừa là “đạo quả” (ĐẠO):
Trích kinh Kim Cương : “Pháp này bình đẳng, không có cao thấp gọi là “vô
thượng chánh đẳng chánh giác”. Trừ bỏ các sự phân biệt ta/người, ta/chúng sinh,
ta/thọ giả là đạt được “vô thượng chánh đẳng chánh giác” (nghĩa là đạt
được cái kết quả, hay “đạo quả” tức là ĐẠO, là cái đích).
[3] Theo bản dịch tiếng Hán của Cưu Ma La Thập: “Thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ, thị danh A NẬU ĐA LA TAM MIỆU TAM BỒ
ĐỀ” (Kinh Kim Cương), thì “Vô thượng” (vô hữu cao hạ) nghĩa là
không phân biệt cao thấp, nghĩa rộng là không còn mang
tâm phân biệt nữa, như vậy cũng là đạt bình đẳng tuyệt đối (Chánh
đẳng) , như vậy là giác ngộ chân chánh(Chánh giác)
Nhưng nếu hiểu “Vô thượng”
là “không có gì cao hơn” thì nghĩa cũng không khác. Khi ấy diễn dịch “Vô
thượng, Chánh đẳng, Chánh giác” là: khi đã đạt tâm tuyệt đối bình đẳng (Chánh
đẳng) là đã tới mức cao tột cùng (không còn gì cao hơn nữa, tức “Vô thượng”),
đó là giác ngộ chân chánh (Chánh giác).
Theo Từ điển Phật học Online thì “Vô thượng, Chánh đảng, Chánh giác” dịch từ A NẬU ĐA LA
TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ (S. Anuttarasamyak sambodhi)
A nậu đa la (Anuttara): Vô thượng, không gì
hơn.
Tam miệu (samyak): chánh đẳng: chân chánh không thiên, bình đẳng.
Tam Bồ Đề (sambodhi): chánh giác.
Hợp lại thành: “Vô thượng chánh đẳng chánh giác”, sự giác ngộ chân chính, bình đẳng và vô thượng của Phật.
Tam miệu (samyak): chánh đẳng: chân chánh không thiên, bình đẳng.
Tam Bồ Đề (sambodhi): chánh giác.
Hợp lại thành: “Vô thượng chánh đẳng chánh giác”, sự giác ngộ chân chính, bình đẳng và vô thượng của Phật.
[4] Chúa Giê-su là dòng dõi
của vua Đa-vít. Vua Đa-vít là con của ông Gie-sê (Jesse).
[5] Tử viết” “Thiên hạ hà tư hà lự, thiên hạ đồng qui nhi thù đồ, nhất trí nhi bách
lự, thiên hạ hà tư hà lự?”
Thầy (Khổng) giảng: “đạo lý trong thiên hạ cần gì
phải ngẫm nghĩ bằng ý riêng (tư), tính toán bằng mẹo vặt (lự), vì thiên hạ
đường đi tuy khác nhau mà qui kết thì y như nhau: tính toán trăm lối mà cuối
cùng chỉ tóm vào một lẽ, (lẽ đó là có cảm thì có ứng, ứng lại gây ra cảm), cần
gì phải ngẫm nghĩ bằng ý riêng, tính toán bằng mẹo vặt. [Trích “Kinh Dịch : Đạo của người quân tử” - Hệ Từ Truyện - thiên hạ - chương V, của Nguyễn Hiến
Lê]