Menu

Thứ Hai, 31 tháng 10, 2016

TINH - KHÍ - THẦN



Đức Thanh sơn Đạo sĩ dạy:
      Tích khí tồn tinh cánh dưỡng thần,
      Thiểu tư quả dục, vật lao thân.
      ( Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần
      Ít lo, ít muốn, ít lao thân.)
      Vậy tinh khí thần là gì? 


        Trời có ba báu là: Nhựt , Nguyệt , Tinh.
        Đất có ba báu là: Thủy , Hỏa.,Phong
        Người có tam bửu là: Tinh, Khí ,Thần.
      Trời có ba báu ấy mà hoá sanh vạn vật, dưỡng dục muôn loài, chuyển luân càn khôn thế giới, phân ranh ngày đêm.
      Đất nhờ ba báu ấy ma ømưa gió điều hòa, cỏ cây tươi nhuận thời tiết có bốn mùa.
      Người có tam bửu để nuôi dưỡng thân thể, minh mẩn phát kiến khoa học giúp nhân loại.
      Con người qui được tam bửu ngũ hành thì đắc quả đạt đạo, còn chơi bời trác táng làm hư hoại tam bửu ngũ hành thì thân bại , hình người mà dạ thú. Vậy phải giữ gìn tinh , khí , thần như báu vật.


      TINH

      Tinh là chất dinh dưỡng hấp thụ từ tinh hoa đồ ăn sau khi được chuyển hoá cấu tạo nên cơ thể và dinh dưỡng cơ thể. Cái đem đến sự sống gọi là tinh . Tinh do thận tiết ra, mà thận là chủ của thủy nhận lấy tinh hoa của ngũ tạng, lục phủ mà tích trữ, cho nên ngu õtạng hưng thạnh thì tinh tràn đầy.Tinh là nguồn gốc của thân thể , nên giữ gìn được tinh thì không sợ bệnh hoạn. Nếu nguyên âm kém, thì nguyên dương lấn áp, giao động (hay ngược lại) , làm sức đề kháng của cơ thể bị giảm súc thì tà khí xâm nhập mà phát sanh bệnh.

      KHÍ

      Khí là chất li ti khó thấy như tinh khí của thức ăn chất uống lưu hành trong thân thể.
      Khí là sức hoạt động của nội tạng như khí lục phủ, khí ngũ tạng…
      Như vậy, khí bao hàm cả hai loại trên
      Theo nguồn gốc thì khí trời hít thở vào phổi và khí hoá sinh ra trong thức ăn uống đều gọi là khí hậu thiên.
      Còn khí chứa ở thận gọi là khí tiên thiên, vì nó bao gồm khí nguyên âm (thận âm) và khí nguyên dương (thận dương) bẩm thụ ở tiên thiên , nên còn gọi là nguyên khí.

      Hai khí tiên thiên và hậu thiên bao trùm bốn thứ: nguyên khí, tôn khí, dinh khí và vệ khí. Tôn khí (thượng tiêu ) chưá ở Thượng khí hải tại giữa ngực . Đó là chỗ vừa qui tụ vừa xuất phát vận hành trong toàn thân rồi lại trở về tại đó.Tôn khí và nguyên khí, một chứa ở lồng ngực và một chứa ở thận kết hợp nhau mới nuôi dưỡng cả cơ thể. Ta gọi chung cả hai là chân khí. Chân khí kết hợp với cốt khí làm cho cơ thể khỏe mạnh.
      Dinh khí (Trung tiêu) là thứ khí của thức ăn uống thuộc âm. Âm tính nhu thuận cho nên dinh khí đi ở trong mạch .
      Vệ khí (hạ tiêu) là khí mạnh trong đồ ăn uống nên thuộc dương đi ngoài mạch .Khi ta luyện khí thì âm dương ức chế lẫn nhau. Nếu tôn khí, dinh khí, vệ khí bất hoà trở ngại, ta sẽ bị bệnh.


      THẦN

      Thần là thái cực, là huyền bí của đại não nơi cơ thể con người. Thần chủ đạo việc phối hợp khí hóa âm dương .
      Thần biểu hiện sức sống . Cho nên thần còn thì sống, thần chết thì hết. Thần sung mãn thì ngươì khỏe mạnh , thần suy kém thì người yếu đuối.
      Quan hệ giữa tinh , khí, thần trong mỗi cơ thể là mấu chốt chủ yếu để duy trì sự sống. Cái mạng con người bắt đầu từ tinh, sống được là nhờ khí, mà chủ sinh mạng lại là thần. Để cho pháp luân thường chuyển thì khí sinh tinh, tinh dưỡng khí, khí dưỡng thần, rồi thần lại hoá khí.
      Tam bửu hổ tương lẫn nhau. Tinh là cơ sở của thần, khí từ tinh hoá ra. Thần là mặt biểu hiện của khí .
      Sự thăng trầm của tinh , khí, thần quan hệ đến mạnh yếu của thân thể, sự mất còn của sự sống. Vì thế cổ nhân mới gọi tinh khí thần là tam bửu (ba món báu ), tức là nguồn gốc sinh mạng của con người. Các nhà đaọ học coi thần là Thái cực nơi cơ thể con người . Thần chủ đaọ viêïc phối hợp khí hóa âm dương màta thường gọi là thần khí , thần sắc. Nên thần mất tạng tuyệt, vì các tạng có nhiệm vụ : can tàng hồn , tâm tàng thần, thận tàng tinh, phế tàng phách và tỳ tàng trí ý. Như thế , thần luân chuyển họat động , biến hóa vô cùng , không có chúng sanh nào mà không có thần ngự trị.





      Luyện kỷ là tự luyện mình ( kỷ là tự mình ) lập cái tâm cho dứt sự thương yêu (diệt dục ), trìu mến , và mọi quyến rũ của thế gian (trường trai ) là tập làm chủ bản thân mình . Tu đơn , tu chơn , thiền định, hay luyện kỷ là một trong các cách nói khác nhau .Hườn hư là an tịnh cái tâm , luyện cho khí hậu thiên tiếp vơí khí tiên thiên. Hễ hườn hư là đạt đạo.
      Ngoài việc nâng cao chính khí để cơ thể nhẹ nhàng thuần dương đắc quả, việc luyện tinh khí thần là tập cho con người tính điềm đạm ,vui tươi, lòng nhân ái, có những suy nghĩ tốt , bỏ tư tưởng xấu xa, tăng cường hoạt động nội tạng mà còn sửa mình , trừ khử các bịnh và diệt thất tình , lục dục nữa.
      Vì giận thì hại can (can thuộc mộc), mừng quá hại tâm (tâm thuộc hoả) , lo nghĩ hại tỳ (tỳ thuộc thổ) buồn quá hại phế (phế thuộc kim) , sợ hãi hại thận (thận thuộc thủy).
      Thế nên bỏ giận dữ để nuôi dưỡng tinh, ít lo nghĩ để nuôi dưỡng thần, bớt nói để nuôi dưỡng khí, ngăn lòng ham muốn để nuôi dưỡng tâm.
      Muốn nuôi dưỡng tâm phải nuôi dưỡng thần trước.
      Muốn nuôi dưỡng thần phải nuôi dưỡng khí trước.
      Muốn nuôi dưỡng khí phải nuôi dưỡng tinh trước.
      Muốn nuôi dưỡng tinh phải nuôi duỡng chí trước.
      Muốn nuôi dưỡng chí phải nuôi dưỡng thần trước.
      Việc luyện đaọ chỉ có một mục đích, nhưng mỗi thời kỳ có tên khác nhau. Phật Giáo chú trọng “Hư vô tịch diệt” nên dùng phép thiền định mà giữ lòng không cho xao động.
      Đạo Tiên chú trọng “ thanh tịnh vô vi” để tùng thiên lý, quyết không để cái tâm lưu luyến hồng trần , tức lánh trần.
      Đạo Nho chú “ tồn tâm dưỡng tánh”, chỉ tĩnh toạ để tạo cái tính tiết độ cao siêu của bậc quân tử.
      Đại Đạo thì chú trọng luyện “ tam bửu, ngũ hành” mỗi ngày công phu bốn lượt và tịnh luyện một lần để nuôi dưỡng linh hồn, vì đó là mục đích trọng yếu của tu thân.
      Luyện tinh khí thần, chủ yếu là luyện khí. Khí vào buồng phổi rồi luân lưu khắp châu thân để nuôi dưỡng cơ thể . Vậy luyện khí tức là luyện thở .
      Con người có thể nhịn ăn 50 ngày, nhịn uống 5 ngày, nhưng chỉ nhịn thở vài phút thì sự sống không còn.
      Khi còn bào thai trong bụng mẹ thì bà mẹ đã thở cho thai nhi .Khi sanh ra, cuống rún bị cắt rời tách khỏi nguồn thở của mẹ. Thán khí trong máu trẻ sơ sinh tăng cao khiến nó phải khóc giúp cho hai lá phổi bung ra.
      Thế là sự hô hấp của đứa bé bắt đầu thở cho đến cuối cuộc đời của nó. Như vậy sợi nhau thai thay thế bởi sợi sinh khí đem sự sống của khí trời vào cho con người . Sợi khí đó là hơi thở. Hơi thở là sự sống, mà sống là phải thở. Nhưng thở cách nào cho sự sống khỏe mạnh và sống lâu dài, đó là cả một nghệ thuật nên phải luyện khí vừa để nuôi cơ thể, vừa để dưỡng thần chí.





      Muốn tham thiền nhập định, trước phải luyện khí. Thế nên luyện khí rất quan trọng.Đức Chí Tôn dạy:
        “ T… làm Tịnh thất cho rồi đặng mấy anh em con vào tịnh; cái đài luyện khí trật hướng, phải xoay mặt qua chánh đông” (Đàn 5- 1928).
      Bởi lẽ luyện khí chưa thành thuộc mà vào tham thiền, dinh khí và vệ khí phản khắc nhau (như trình bày ở trước) thì tẩu hỏa nhập ma, do người tu luyện không biết thở cho đúng cách.
      Muốn tịnh tâm (an tâm) , ta phải thở bằng bụng: phình bụng là hít vào, thót bụng là thở ra, thở như vậy để trái tim được thong thả.

      TÍNH CHẤT CỦA LUYỆN THỞ

      1-Thở sâu và thong thả:
      Khi thở ra, khí dơ trong các phế nang được thải ra hết. Khi hít vào, khí trong lành phải đi qua mũi đủ thời gian điều hòa nhiệt độ của không khí và đủ thời gian khi đi vào tận phế nang sâu nhất. Chính vì thế mà ta phải thở sâu và thong thả mới bảo đảm sự trao đổi khí bên trong cơ thể được trọn vẹn.
      2-Thở êm nhẹ:
      Biểu hiện sự thoải mái trong tâm hồn, hơi thở ra hoặc hít vào không có tiếng động, người ngồi bên cạnh không nghe được hơi thở của ta. Hãy đặt một cái lông trước lỗ mũi, nếu hơi thở lay động cái lông, tức hơi thở chưa êm nhẹ
      3- Thở đều nhịp:
      Vì các cơ quan trong thân thể đều tuân theo một nhịp điệu nhất định để giữ thế cân bằng, ổn định sinh lý và phụ thuộc vào nhịp thở và nhịp tim. Hai loại nhịp nầy quan hệ mật thiết với nhau. Do đó thay đổi nhịp thở cơ thể ảnh hưởng đến hoạt động sinh lý của tim, tốt hay xấu tùy theo nhịp thở mau hay chậm .
      Phải giữ đều nhịp thở từ đầu đến cuối lúc luyện khí, 8 lần trong một phút là tốt.

      THỞ BẰNG MŨI

      Thở ra và hít vào đều bằng mũi , vì mũi là bộ máy điều hòa không khí của thân người không khí hít vào được những nếp gắp trong hốc mũi hấp nóng , cản bụi, tạo đủ điều kiện đề vào phổi
      Nếu hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng thì mạch nhâm mạch đốc bị rời ra và độ nóng không khí dần dần mất nhiệt nên sẽ bị lạnh, gây ra sổ mũi hay sưng phổi. Còn thở ra bằng mũi thì nhiệt độ được bảo toàn giúp cho mũi điều hoà được không khí hít vào .
      Mũi còn có vai trò điều tiết lưu lượng không khí hít vào và thở ra. Nếu thở bằng miệng thường làm thay đổi tỉ lệ đó và làm mất cân bằng hoạt động hô hấp.
      Thở bằng miệng chỉ nên dùng trong trường hợp khẩn cấp do cơ thể đòi hỏi mà thôi.
      Thở bằng mũi còn có lợi là vì các đầu dây thần kinh khứu giác tập trung bên trong đó, giúp ta phân biệt được mùi hương để khám phá mọi sự thay đổi ô nhiểm của không khí mà cơ thể có phản ứng tự vệ tức thời.Khi tập thở thì thả lỏng các cơ bắp không tham gia vào động tác thở, như tay chân chẳng hạn. Hai mắt phải lim dim hoặc nhắm hẳn lại để dễ dàng tập trung ý tưởng vào Hạ khí hải (tức Đơn điền). Nhờ đó ta tưởng tượng khí lọt vào mũi nhẹ nhàng làm bụng phình lên, xẹp xuống. Tới một lúc, ta cảm hấy hơi thở dương khí lôi cuốn mình đi…và ta sắp bước sang trạng thái khoan khoái kỳ lạ phiêu diêu.

      NHỮNG ĐIỂM CƠ BẢN VỀ THỞ BỤNG

      Khi tập thở phải lưu ý những điểm sau đây:1- Với tư thế nằm, ngồi gì cũng được, thường là ngồi xếp hoa sen, để hai bàn tay ngữa phía dưới Đơn điền. Hai vai không lay động , vì nếu nhúc nhích sẽ làm cản trở động tác hô hấp.
      2- Luôn luôn thể hiện trong tâm hình ảnh : phình bụng hít vào, xẹp bụng thở ra cho hết thán khí Thở sâu, thong thả, nhẹ nhàng và đều nhịp
      Tập thở thuần thuộc đến độ nào đó không cần tập nữa mà cơ thể phản xạ thở tự nhiên theo thói quen.
      Thầy Mạnh Tử viết rằng: “Thi tập nghĩa sở sanh, phi nghĩa tập nhi thủ chi”. Nghĩa là làm theo đạo pháp thì khí sanh mà không dùng sức để cưỡng chế. Thầy cũng nói: “Tất hữu sự yên, nhi vật chánh. Tâm vật động. Vật tư trưởng dả”. Aét có sự đến (khí sanh) nhưng đừng dùng sức mạnh ép khí.Tâm không động mà chẳng lưu ý trợ trưởng nữa. Thầy cho phép luyện thở như cách trồng lúa, muốn lúa mau lên thì phải năng chăm bón chớ chẳng phải lấy tay nhóm gốc, chẳng khác gì thúc bách khí chóng đến mà không biết pháp nuôi dưỡng khí thì không bao giờ đạt hiệu quả.




      Ngay từ buổi đầu khai Đạo, Đức Chí Tôn đã dạy các môn đệ cần phải tịnh luyện:
        Thành tâm niệm Phật
        Tịnh , tinh , tịnh, tỉnh, tỉnh.
        Tịnh là vô nhứt vật,
        Thành tâm hành đạo (pháp) 

        (Đàn đêm 14-1-1926)
      Muốn tọa tịnh, trước phải nhập định. Nhập định là làm cho tâm thần yên ổn, không nghĩ suy điều chi, chỉ nuôi dưỡng duy nhất tư tưởng thánh thiện trọn lành. Giờ nhập định tốt nhất là sau lễ thời mẹo, dậu . Các tịnh viên sắp đàn, ngồi hoa sen như ngồi cúng ở Đền Thánh , lấy dấu Thầy xong ,bắt đầu niệm các bài kinh, nghĩa là đọc thầm bằng tư tưởng mà không phát ra thành tiếng để dứt tam nghiệp: khẩu , ý (tâm) thân mà diệt tam độc: tham , sân ,si.

        Tịnh khẩu chú
        Lời ăn nói là nơi lỗ miệng
        Tiếng luận bàn liệu biện đề phòng.
        Giữ cho miệng đặng sạch trong,
        Gìn tâm minh chánh rèn lòng niệm kinh 
        (1 lạy )Tịnh tâm chú 
        Lòng người đặng tánh linh hơn vật
        Biết kỉnh thành dè dặt khôn lanh
        Khá tua lánh dữ làm lành
        Những điều nghiệt ác hóa thành khói tan .
        (1 lạy)
        Tịnh thần chú 
        Ở trần thế bụi nhơ thân vấy
        Khí trược xin bốc tẩy thành hơi
        Đạo tâm giữ sạch chẳng dời
        Lòng thành kỉnh lạy Phâït Trời chứng tri.
        (1 lạy)
      Ngay sau đó là tâm thiện niệm. Thầy đã dạy : “Dầu không Thiên phong hễ gắng tâm thiện niệm thì ngôi vị cũng đạt hồi đặng “ (Đàn đêm 17- 9 1927 ), rồi tiến vào tọa thiền.Muốn tọa thiền phải tập trung ý tưởng cao, xóa bỏ tư tưởng thiện ác lởn vởn trong tâm. Âm thanh đập vào tai nghe như không nghe. Ánh sáng chói vọi vào mắt thấy mà như không thấy, tạo cái tâm phá chấp
      Muốn tĩnh tọa phải là một cái bồ đoàn, hình tròn đường kính 2 tấc, cao 1 tấc, dồn gòn. Bồ đoàn để giữa cái niệm hình vuông cạnh 6 tấc. Tu sĩ ngồi lên bồ đoàn xếp hoa sen như ngồi cúng ở Tòa Thánh .
      Xương cùn chiếu đúng giữa bồ đoàn, nghiêng qua, nghiêng lại cho chính rồi chỉnh thân cho ngay thẳng, hai ống chân kéo sát vào thân, sau đó nới lỏng dây lưng, cổ áo cho thoải mái. Lấy mu bàn tay trái để lên lòng bàn tay phải (nữ thì làm ngược lại ). Hai ngón tay cái tiếp xúc với nhau, cạnh ngón út bàn tay đặt nhẹ vào dưới đơn điền..lưng thẳng , đầu hơi cuối xuống, mắt nhắm ¾. Gương mặt bình thản và bắt đầu thở bằng bụng (thai tức) . Nhớ ngậm miệng lại , răng khít răng, lưỡi kề răng làm như vậy giúp cho mạch nhâm và mạch đốc giao nhau. Nước miếng sẽ chảy ra gọi là huỳnh tương cam lộ, hãy nuốt từng ngụm một, gọi là ngọc dịch hườn đơn , nước miếng đó chính là tinh, tinh hóa khí, khí hóa thần.Nhờ đó điển trong người không thất thoát (trở lại trên) và luôn được pháp luân thường chuyển .
      Nếu nằm ngữa thì buông lỏng cơ thể, thở tự nhiên , nhắm mắt ngậm miệng. Đặt huyệt lao cung của hai lòng bàn tay vào ngay huyệt Đơn điền.
      Nếu nằm nghiêng bên trái thì đặt huyệt lao cung tay trái vào dái tai , lóng ngón tay út đặt lên huyệt Thái dương , chân trái duỗi thẳng, chân mặt hơi co, Huyệt Lao cung tay phải đặt trên huyệt hoàn khiêu . Nằm nghiêng bên phải thì ngượïc lại.
      Cứ thở đều đều cho huyền khí bên ngoài hòa lẫn với nguyên khí bên trong người thành chơn nhứt khí để nuôi cơ thể. Dẹp bỏ hết mọi ước muốn ở cõi trần gian , giữ cái tâm thanh tịnh, một ngày nào đó mà takhông thể biết trước được , tự nhiên thần khí của ta sáng bừng lên cảm thấy chân lý. Đó là lúc điểm sáng linh quang được bật cháy tỏa quanh thân ta, ấn chứng ngộ đạo . (1)
      Lục Tổ dạy: “Một khi đã ngộ, thì chỗ nào cũng vậy . Muốn hồi hướng về Phật phải theo tự tánh mà hành chớ cầu ở ngoài thân. Tâm giác ngộ sáng suốt là Phật, Tâm ấy phóng đại quang minh phá hết lục dục chiếu vào tự tánh làm cho tam độc dứt liền , các tội đều tiêu diệt, trong ngoài sáng tỏ chẳng khác gì cõi Tây phương”.
      Tịnh từ 1 đến 2 giờ , muốn xả tịnh thì hai bàn tay chà sát vào nhau cho nóng gọi là “âm dương ký tế” rồi chà từ mặt lên trán ra sau ót , đoạn vuốt hai bên tai , hai cánh tay, hai ống chân. Sau cùng, hai bàn chân tự chà vào nhau, rồi đứng lên đi lại bình thường.
        ĐỨC THANH SƠN ĐAÏO SĨ
        Giáng cơ năm Giáp Dần
      -------------------------------------------------------------
      Ngộ có ba bậc: khải ngộ và chứng ngộ 
        Khải ngộ phải nhờ thiện trí thức chỉ dẫn phép tu niệm đọc kinh đọc sách, gọi là trí hưũ sư
        Giải ngộ là nhân nghe một câu kinh hay lời giảng đạo Thánh hiền, liền thấy được bản tánh nhanh như chớp (sát na).
        Chứng ngộ là công phu tịnh luyện viên mãn , an trụ tánh giác trọn vẹn do tịnh luyện mà phát ra, không nhờ sự giúp đỡ của ai , gọi là trí vô sư. Được chứng ngộ mới đạt bất sanh bất diệt tức giải thoát sinh tử mà hằng sống.




      Nếu tu luyện đúng mức ta trở thành Thánh thiện , không những vậy vô hình trung, nhờ luyện khí cơ thể được khoẻ mạnh. Phương ngôn có câu : “Tinh thần Thánh thiện trong xác thân khang kiện” ( Une Aâme sainte dans un corps sain). Nói cách khác, xác thân khỏe mạnh mới có tinh thần Thánh ThiệnThầy cũng dạy:’’ Tham thiền nhập định là để tâm thần yên ổn hầu có sửa mình màtrừ khử các bịnh và diệt thất tình lục dục”.
      Thật vậy luyện tam bưủ ngũ hành theo cổ nhân là để điều hòa mọi hoạt động sinh lý nội tạng và thần kinh . Trong sinh hoạt hằng ngày, cơ thể bị thay đổi luôn, hơi thở cũng phải thay đổi cho thích ứng. Ngồi bàn làm việc, chân tay ít hoạt động , mệt mõi; thay vì hút thuốc lá, hãy thở sâu 5 lần sẽ thấy khoan khoái . Khi lao động nặng nhọc, máu chứa đầy urê và acid lactic , hãy cứ thở sâu như trên đây sẽ thấy kết quả tốt.
      Khi giận dữ, cáu gắt, nhịp tim đập dồn dập, hơi thở rối lên. Để nén cơn giận, ta hít vào thật sâu, đưa cơ hoành nén hơi giữ khí lại rồi thả ra từ từ. Làm như thế 5 lần cơn giận sẽ hết.
      Đêm nằm không ngũ được, ngồi dậy xếp hai chân cho chặt làm động mạch đùi bị ép lại và thở như trên, rồi nằm xuống. Máu động mạch dồn trở lại hai bàn chân , đồng thời lôi cả máu từ não xuống, cơ thể chuyển sang trạng thái thiếp ngủ .
      Thở bằng bụng có thể trị được nhiều chứng bệnh . Nhờ thở bằng cơ hoành, coi như trái tim thứ hai (deuxième coeur- veineux ) giúp người bị suy tim thoải mái vì tim ít gắng sức. Khi lên cơn hen suyển, ngồi thẳng thở ra một hơi dài sâu và tập trung ý xuống vùng dưới bụng đang thót vào như để đẩy khí ra thật hết rồi tự động hít nhẹ nhàng vào. Cố tập thời gian dài sẽ cắt đứt được cơn hen.
      Khi thở bằng bụng, cơ hoành coi như cây thụt xoa bóp nội tạng như dạ dày, gan , ruột ; nên có tác dụng trị bón và loét dạ dày; đặc biệt kích thích tuần hoàn tĩnh mạch gan, làm tiêu tan xung huyết để ổn định tiêu hóa và hạ bịnh cao huyết áp.
      Tóm lại , luyện khí thở bằng bụng tăng cường sức đề kháng và nâng cao sức khỏe cho cơ thể, tạo niềm tin mình tự chửa bịnh cho mình . Thế mới hay luyện tam bưủ đồng nghĩa với luyện tập dưỡng sinh cho thân khoẻ mạnh . Bởi lẽ, tinh thần Thánh Thiện chỉ có trong xác thân khang kiện.

        Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ đã dạy:DƯỠNG SINH THI 
        Tích khí tồn tinh , cánh dưõng thần
        Thiểu tư quả dục , vật lao thân
        Thực bôi bán bão vô kiêm vị
        Ẩm chỉ tam phân mạc quá tầng
        Mỗi bá hí ngôn , đa thú tiếu
        Thường hàm lạc ý , mạc sinh sân
        Nhiệt viêm biến trá, đô hưu vấn
        Nhiệm ngã tiêu giao quá bách xuân
        Dịch nghĩa:
        Giữ khí , gìn tinh , lại dưỡng thần
        Ít lo ít muốn , ít lao thân
        Cơm nên vừa bụng đừng nhiều vị
        Nước chỉ vài phân, chớ quá tầng
        Môi cứ câu đùa vui miệng mãi
        Dạ thường nghĩ tốt bụng lâng lâng
        Nóng hờn , biến trá, thôi đừng hỏi
        Để NGÃ tiêu giao đến tuổi trăm.
      Đại ý bài thơ:
      Luyện tinh khí thần mục đích là để trường sinh , có sức khỏe để yêu đời , yêu người, không giận hờn, gian trá, ham muốn, mưu toan. Cứu cánh của người tu là thanh đạm ít món ăn vừa đủ no, uống từng ngụm nhỏ vì nước nhiều làm mệt tim.
      Bởi lẽ bệnh tật phát sinh do ăn uống quá độ, tích tụ nhiều năm làm cơ thể mất quân bình âm dương mà sinh nhiều chất độc. Chỉ ăn khi đói , chỉ uống khi khát. Aên những chất thuần dương, như ngũ cốc xay lức và hoa quả. Tuyệt đối không ăn các thức có chất hóa học và các loại cà, măng, nấm… Được như vậy sống sẽ đến trăm tuổi già (quá bách xuân).