THIÊN ĐẠO ĐẠI PHÁP TÂM CÔNG CAO CẤP
(CẤP 3)
CHƯƠNG TRÌNH CAO CẤP
1-Bản chất của tư tưởng, ý
nghĩ.
2-Huệ nhãn. Khai Huệ nhãn. Luyện
nhãn.
3-Chữa bệnh từ xa đơn giản, cao cấp
không dùng thuốc.
4-Hình khí. Quang khí. Phép tinh
hóa khí, khí hóa thần.
5-Phép Phong Linh-Tẩy lọc môi
trường.
6-Cửu Long Huyền công
7-Cao Minh công cấp 1.
8-Luyện
bài Thiên Long Thiên công Pháp.
BÀI 1-BẢN CHẤT TƯ TƯỞNG Ý NGHĨ
(Đọc trong Thiên Kinh-Nhân Kinh…)
BÀI 2- HUỆ NHÃN
PHÉP KHAI HUỆ NHÃN-LUYỆN NHÃN
Gọi chung
mắt thần thông là huệ nhãn. Huệ nhãn có các cấp nhìn ứng với trình độ thần
thông: Âm dương nhãn, Thiên nhãn, thần nhãn…âm dương nhãn, có thể nhìn được
vong, thấu nước, đất, thấy được vía người; nếu tinh thông, thấy được cả tế bào,
vi tế nhỏ nhất…Thiên nhãn siêu hơn, thấy được tầng không, đất, nước không hạn
chế, tận thiên hà xa xôi, ngồi ở đây thấy ở xa bên kia trái đất, thấy được
Thượng giới, nhìn thấy các vị Thượng linh…
Vậy đặc
tính của nó là gì? Vốn nó là con mắt thứ 3 của chúng ta, tùng quả thông nối với
nó. Tùng quả thông là tuyến nội tiết quan trọng nhất của não và là trung tâm
của linh hồn. Nó được cấu tạo bằng vi chất tinh túy nguyên tử đặc biệt, có chức
năng tạo ra hoóc-môn điều chỉnh cảm giác, tiền đình, ánh sáng, ngủ thức…Nó cảm
nhận được thể vật chất vi tế trong bình diện vật chất thanh nhẹ. Bình diện vật
chất ấy ngay bên cạnh chúng ta thôi, chứ không xa xôi gì. Hơi, khí, điện từ
trường, sóng điện, sóng ánh sáng…và thế giới tâm linh cảnh thấp. Những thứ đó
mắt thường không nhìn thấy được. Không có địa ngục nào cả, thế giới tâm linh
hiện diện ngay bên chúng ta, không có dưới âm (tức là dưới đất, dưới ấy chỉ có
xác thối thôi) việc này đã nói rồi.
Nó xưa
được các giống dân siêu đẳng dùng, lúc ấy họ thần thông quảng đại, dùng tâm năng
kéo vật lên cao, như dùng ý đưa khối đá hàng chục tấn lên xây kim tự tháp. Khoa
học này nay bó tay không hiểu tại sao dân Ai Cập xa xưa, cách đây 10 ngàn năm,
chưa có máy móc hiện đại như cẩu, máy bay…lại đưa được khối đá khổng lồ lên cao
hàng chục mét! Xin nói luôn rằng: Nếu cứ không công nhận linh hồn theo lý luận
của ta, thì tất cả đều tịt tắc hết, không giải thích được cái gì về các hiện
tượng vi tế và bí ẩn.
Thiên
nhãn ít tự khai, do tâm xác con người bị ố lậu, nên nó bị bế lại. Có mấy cách
mở: Do Thiên Linh khai, như bản Tôn ta, phép này mới có Thiên nhãn. Tu tốt, đạt
huệ nhãn, âm dương nhãn; bị sang chấn, có thể tự động khai mở. Một số vị đồng
thày, ngoại cảm, khi chết đi sống lại, ốm vật vã sống lại, thì thấy nổi phép,
nhãn khai, ấy là do họ bị Thiên linh đọa rồi khai cho làm việc, khi họ bị ốm
như thế, cơ thể họ được hoạt hóa chuyển đổi, ứng được với tầm năng lượng mới ấy
do Thiên linh ban cho. Nhưng nếu ăn lộc, kiêu tham, khả năng-tài bói dần mất
đi.
Chớ mong
nhanh có khai nhãn, vì sao? Tôi đã nói nhiều lần với một số người rồi: Khi chưa
đủ sức đánh tà, mở nhãn thấy nó liền, nếu nó đánh lại, không đủ sức thì bị họa,
nhập ma ngay, rồi bị sụt sức, nên chớ vội khai. Sang cấp cao, ứng với trình độ
và mức năng lượng cao rồi, có mắt huệ cũng chưa muộn.
Tôi không
khuyến khích các vị khai nhãn. Tùy sức, tùy đức mà làm. Người thường nên chọn
cách tu luyện nâng cao sức khỏe, luyện các bài công. Tất nhiên, khi sang cấp 3
luyện thường xuyên, huệ nhãn tự động mở, giống như anh đang đi trong suối, ra
sông vậy, cứ tuân theo dòng chảy. Có thể luyện vài lần các bài, rồng thiêng nhả
ngọc, đã tự khai nhãn. Khai nhãn rồi thì thấy Tượng pháp của mình.
Bài thơ Khai Nhãn, người thông minh đến Tam
Công Pháp sẽ biết cách khai nhãn thần thông.
Rồng nhả lôi công
Dây đồng nối phóng
Long ngậm ngọc châu
Mắt thần xoay động
Nguyên Đại tỏa
quang
Ánh vàng lấp lánh
Đường đạo thông thiên
Khí Trời cao vọng
Rồng xuất ấn đường
Huệ Trời thông tượng
Khi chưa
khai Long hỏa, đã có thể khai nhãn rồi, nhưng phải tập nhiều, nếu khai được
Long hỏa, rồi mới khai nhãn, là tốt nhất, để ngay sau khi khai nhãn, có thể
xuất hồn mà không bị nguy hiểm, hoặc có sức mạnh công năng lớn.
-Tuy
nhiên, dù bất cứ lý do gì, thì tu Pháp, cũng phải khai nhãn.
Cách khai: Có nhiều cách:
1- Phải
khai sao 7 trước. Sau đó, kích hoạt tùng tuyến. Nếu nhờ thầy, nhờ bạn cũng
được.
2-Luyện
chủ yếu theo bài 3 Thiên Công pháp, có phần dẫn khí Long lên chạy ra sao 6, rồi
lại chạy ngược lại, ra huyệt Ngọc chẩm.
Bài này,
sau này khi nhãn đã khai, thì coi đây là bài và cử động thường xuyên tập để làm
sáng mắt thần.
Tuy
nhiên: Nếu chưa thông Long hỏa, Bách Hội, hay hệ thống kinh mạch, thần kinh não
chưa được thử thách, khai mở, luyện từ từ…thì khi khai đến sao 6, Ngọc chẩm, sẽ
rất đau đầu, nhức buốt, hoặc biến loạn thần kinh, rất nguy hiểm. Cho nên, khi
chưa chuẩn bị chưa tốt, không được khai đột ngột, mà phải khai từ từ.
3-Thiền,
quán ý nơi sao 6; trong tùng tuyến, phải được kích hoạt cho thông, quen với
năng lượng mới.
4-Thở
huyền pháp- Thở lấy khí qua sao 6.
Tuy nhiên, không lạm dụng, rất mỏi và nhức trán.
5-Sau khi
khai, tập nhắm mắt nhìn đồ vật, gần đến xa, từ tại chỗ đến cách không gian, gần
đến xa, xuyên vật cản, thu to, nhỏ, soi chiếu. Khi thiền sâu, càng tốt, soi các
bộ phận thân thể, xương cốt của mình, rồi tập soi vào người khác, bắt đầu nhận
biết các khu vực bị bệnh; sau đó, kết hợp truyền khí vào nơi bị bệnh, xả khí
trọc qua các đường kinh, đó là cách chữa bệnh mà Ta đã làm.
6-Tập
nhìn mở mắt. Ta được Thánh Minh Không cho mở mắt nhìn, không phải tập, nhưng có
lúc mắt huệ bị nhiễu, bị rối khí, ăn uống tạp, lập tức nó sẽ mờ đi; cho nên
phải luyện thường xuyên.
-Thiên
nhãn: nhìn xuyên mọi cảnh, cấp, xa gần, trung thượng giới, vong linh, song ánh
sáng, từ trường, huyệt người, huyệt đất…biết bói toán( quá khứ, vị lai.. do
Thiên đình ban). Người thường, đạt được như thế rất hiếm.
-Thần
nhãn: Nhìn vong, cốt, xuyên cơ thể.
Người tu hành, bậc thượng thừa, có thể đạt được Lục thông:
1-Thiên nhãn thông: Nhìn muôn dặm, soi
chiếu mọi thứ.
2-Tha tâm thông: Đọc được ý nghĩ người
khác
3-Túc mạng thông: Biết quá khứ, vị lai,
số kiếp…
4-Thiên nhĩ thông: Nghe được vong hồn,
tri giác cây cối, loài vật.
5-Thần cảnh thông: Phép phân thân, xuất
hồn vía, khinh công…
6-Lậu tận thông: Giác ngộ Chân lý Tối
thượng, cứu khổ ban vui, thiện lành hoàn toàn, không còn lậu hoặc, đạt chính
giác.
Thời mới,
chúng ta tu luyện, cố gắng đạt lấy 4 hoặc 5 thông là siêu lắm rồi; lúc mãn, về
Trời, đạt thông còn lại, khi có công xây đời mà không bị lậu hoặc.
Thần tiên
tại thế là như vậy, ai ai cũng có thể hoàn toàn tu tập để đạt được Lục thông.
Nên nhớ,
tà nhân cũng có thể đạt 5 thông trước, chỉ có thông sau thì chúng làm ngược là;
vì lợi danh, tiền bạc, và đánh tranh với chúng ta hoặc dùng thần thông để hại
người thiện lành, chống lại Cha và các thánh thần và Ta. Nên, chúng ta chỉ khác, là dùng thần thông để
cứu độ, xây đời, cấm vì mục đích nào khác, nếu không, sẽ loạn Pháp ngay. Pháp
ta cốt cứu đời bằng Chính Pháp mà
thôi. Cấm thi triển thần thông vì danh lợi riêng mình, cấm khoe tài.
Ngay từ
hồi đầu mới nổi phép, Ta luôn nói, chỉ nổi cứu bệnh một thời gian, việc của Ta
là khác: Đào tạo nhân tài, đệ tử, lập
Pháp. Các giáo chủ xưa nếu có thần thông, cũng thế, nhưng không đạo giáo
nào lại đào tạo ra các người để ngồi xem bói, ngồi dùng thần thông kiếm ăn; khi
nào trong Thiên Đạo, xuất hiện những kẻ núp danh Ta, Cha, Thiên đình, ngồi bói
toán, thi triển thần thông, vị lợi riêng, phá Luật Thiên Đạo và Luật Thánh Đức,
lúc đó, bằng mọi cách hậu nhân phải đuổi cút chúng ra khỏi Đạo, nếu không về
lâu về dài, tất chúng phá Đạo.(Đã qui
định trong Luật Thiên Đạo).
BÀI 3-CHỮA BỆNH TỪ XA ĐƠN GIẢN-CAO CẤP KHÔNG
DÙNG THUỐC
Khai nhãn
xong, tập thành huệ nhãn
Tập soi
mình, soi chiếu người ta
Nhìn
thông, thấy được quỉ ma
Thấy cả
khí bệnh, khí tà, khí hôi
Nếu chưa
thấu được hình rồi
Thì quán
ý ở sao ngôi 6 này
Mắt huệ
thông khí sao ngày
Truyền ý
sao 6 đến ngay bệnh tình
Ở xa thì
quán ý thông
Hình dung
mình ở ngồi thông với người
Lọc khí
cho hết tanh hôi
Thông sao
cho họ, mình ngồi ở xa
Thông
rồi, truyền khí từ xa
Đến nơi
bệnh tạng khí hòa âm dương
Tẩy lọc,
truyền khí thanh lương
Tẩy chỉnh
cả vía vô thường bệnh kia
Tập trung
lọc máu, lọc rìa
Lọc sạch,
thông suốt 7 tia sao thành
Thúc khí
theo mắt huệ nhanh
Để cho
khí được trong lành thì thôi
Cũng là
cách mở mắt Trời
Làm cho
sâu huệ, ân người ân ta.
BÀI 4-HÌNH KHÍ, QUANG KHÍ. PHÉP TINH HÓA KHÍ, KHÍ HÓA THẦN
Lý luận
này, đến cấp này phải biết, đọc trong các bộ Kinh, hiểu về bản chất tư tưởng, ý
nghĩ.
Khi khai
huệ nhãn, đã biết thế nào là hình khí, quang khí-không cần nói nhiều, tự chứng
ngộ và thẩm thấu. Giảng một, tự học ba, chứng thẩm mười.
-
PHÉP TINH
HÓA KHÍ, KHÍ HÓA THẦN
Phép 1: Thở nhẹ như không thở,
quán ý tại Đan điền, khi hít vào thì hơi phình rốn ra một chút, khi thở ra, thì
lại có ý hút khí qua sao 2 vào Đan điền, có thể thông ra tận sau lưng. Đây là
phép Ta nghĩ ra, tăng nội khí đan điền.
Phép này
miên viễn chân hỏa không tiêu, thọ khí ích khí vô cùng.
Phép 2: Thở qua huyệt thần đình,
cả hít và thở. Tăng thọ ích não.
Phép 4: Khi đàn ông hứng dục, mà
không sinh hoạt tình dục, kéo khí từ bầu tinh, kéo lên dọc trục, hoặc qua Đốc
để bổ não (xưa gọi là Hườn tinh bổ não-minh mẫn đến già-thần kinh tốt).
Phép 4: Khi sinh hoạt nam nữ, đến
giai đoạn cao trào, cả nam và nữ đều có thể nhíu bụng, thu hút khí âm (nữ),
dương (nam) qua khí cụ của mình để bổ sung khí, cân bằng âm dương; đây là phép
hợp nhất âm dương dục khí, có tác dụng bồi bổ khí huyết, tăng năng bổ công cho
mình, thì sinh hoạt không bị tổn hao khí lực.
Tất
nhiên, người đối dục với mình phải thanh sạch, khí thể càng thanh tao càng quí,
chứ không hút cái trọc khí vào, thấy nặng cả người, tẩy rất mệt!
Nếu vợ
chồng mà cùng tu luyện thì tốt hơn, nếu không, khí trọc của người kia thông
sang người tu tập, mà có lợi chỉ có lợi cho người không tập, được hưởng khí
thanh!
-Cùng với
phép này, nếu nam nhân đến đoạn cao, muốn níu lại, thì quán ý tại hội âm, hoặc
đan điền, để giữ sức và bổ khí.
·
Cả 4 phép này, cốt để hòa
hợp âm dương nhân, theo đúng luật thiên nhiên, để tăng tuổi thọ cho con người
muôn năm không sai.
·
Còn các phép kéo khí Long
hỏa…thường xuyên, hóa sáng…đã chính là các phép tinh khí thần thăng hoa, Ta
không bàn sâu nữa.
BÀI 5-PHÉP PHONG
LINH-TẨY LỌC MÔI TRƯỜNG
Phong linh, phong thủy, phong ba
Đều là khí thể của nhà thế gian
Tụ tàng vật khí tràn tràn
Đều theo qui luật cung an bởi
Trời
Chỉnh phong, chỉnh khí như người
Làm cho sạch thể cho đời đẹp hơn
Mạch khí đất thế như người
Có âm dương khí, mạch bồi, mạch
suy
Dùng phép truyền lọc khí kia
Phong quang thay khí phân chia
đến lành
* *
*
Phép siêu đẳng Ta truyền, Ta dạy
Là phép hay nay đến mới trình
Một là hồn xuất đến kình
Vũ công truyền phép thổ thần phải
an
Lệnh Ta vá đất kéo hàng
Thông kinh, thông thủy, thông
tàng mạch kia!
Thông mạch đất như là người vậy
Bằng quyền cao sức mạnh mới tài!
Nắn sơn nắn thủy ngắn dài
Thêm hay cắt khí là bài của ta!
Quyền triệu lệnh long thần thổ
địa
Cùng thành hoàng bản thổ bản gia
Tổ tiên, long cốt người ta
Bắt ngồi tuân lệnh về hòa dương
gian
Chỗ nào bế khí thì an
Chỗ nào long mạch vá hàn lại ngay
Thiên phép, thể phép cao tay
Trị lọc cho hết quỉ rày với ma
Tinh thông lọc cả khí ma
Cùng là tà khí, độ xa độ gần
Làm cho địa thế cân phân
Giúp cho nhân thế muôn phần đẹp
thay!
Nơi xưa giặc trấn phá gầy
Yểm bùa yểm cốt gian ngay thế rồi
Đến nay Ta phá tơi bời
Triệu hồn phá phép độ rồi cút đi
Lại bắt thần quỉ gian kia
Chỉnh trị, đập nát, dọa về ngục
cung
Kẻ nào chống phá đất Đồng
Đánh cho nát vía thiên công phép
Trời
Sau này các trò giỏi rồi
Thông thiên thông địa thông người
mới cao!
Phép này Thầy dạy thầy trao
Chỉ được luyện thiện cấm vào
đường ma
Độ cho đất nước, muôn nhà
Rồng Long mở đất, Hoa hòa nhân
gian…
BÀI 6-CỬU LONG HUYỀN
CÔNG
Khấn tên Đại Thánh Minh Không
Đệ Tứ sư phụ Dương đồng nước Nam
Dạy Ta có phép cửu hoàn
9 rồng nhập xuống nối hàng các
sao
7 sao trước, thêm 2 Tuyền cửu
Tức suối chân, nhỏ ở gan chân
Kéo ra thành 9 rồng trần
Có vòi hút khí Huyền công thế
vầy:
Nén khí dọc trục thông ngay
Dồn cả 9 cửa về ngay Đan điền
Xoay khí, xoáy lại cho tròn
Cân bằng Long hỏa theo môn đã bày
Cho rồng hút khí xa thay
Nơi rừng, nơi biển, nơi ngay dưới
mình
Tùy cơ, tùy khí tinh anh
Miễn sao khí sạch, huyệt lành thì
thôi
9 sao ấy bởi ta thôi
Khi nào xuất vía thì ngồi lên
không
Xoay vòng hút khí cửu công
Đưa về nhập lại hồng trần vào
thân
Cho tinh phát sáng khí thông
Thăng hoa hồn hóa màu hồng thiết
tha
Kết thành cao hóa minh hoa
BÀI 7-CAO
MINH CÔNG CẤP 1
Minh Công kết hợp với tòa Linh
nhân
Nơi đại huyệt nối hồng mặt Nhật
Nơi cửu thông ta nối Thái Âm
Có khi bay tận Thiên cung
Xin Cha một ít khí hồng đại yên
Như vậy hóa phép kính tiên
Cao Minh công hợp với cửu huyền
Minh Không
Nay Ta dạy phép truyền Rồng
Ngày sau các hạ tu thành phép
Tiên.
BÀI 8-LUYỆN BÀI THIÊN LONG
THIÊN CÔNG PHÁP
Bài này do Cha dạy
Tác dụng: Tẩy khí thông mạch, đả thông các trung tâm năng
lượng, hiệu năng nội khí tăng rất mạnh, người khí bệnh đang kém, đức mọn, ăn
uống tạp bậy, tham háo dục danh, không nên tập, không hay. Có thể khai nhãn
thần, xuất khiếu thần thông. Đây là bài siêu đẳng, chỉ tập khi đã thuần thục hai
bài trên, biết thiền sâu, tâm năng đã vững vàng, đức đã lớn đủ độ giữ được tâm
pháp, thì mới tập, nếu không sẽ họa.
Gồm 9 cử động:
Đứng, hai chân mở rộng bằng vai.
Niệm Pháp. Phép lễ. Mắt nhắm.
1- Thiên Long hóa khí trái:
Bước chân
phải lên, hơi vặn người sang trái. Nghiêng người trái, 2 Long xuống qua đầu,
vai, ra hai tay. Hai tay vờn múa, xoa xoa nhưng không áp vào nhau, long hóa khí
tròn, xoay 9 vòng.
Lùi về tư
thế cũ, hai chân bằng nhau.
Rồi đưa
hai tay mang khí ốp vào Tượng pháp.
2- Thiên Long hóa khí phải:
Ngược lại
với thế 1.
3- Thiên Long hồi đầu:
Hai tay
đang ở vị trí dưới Tượng Pháp, hai tay dùng tam chỉ, dẫn chỉ cho long xuống 2 chân, lại cho từ từ
quay lên, kéo long 2 bên đi dọc theo
đường mé Linh pháp bên sườn, đi lên hai bên cổ, xoay xoay cổ 3 vòng từ phải
sang trái, long lên 2 má, rồi chỉ hai tay, cho 2 long chui vào thái dương, xoáy
vào, chui vào giữa đầu, rồi chui lên đỉnh đầu, ngự bên Đại Năng.
4- Thiên Long Thiên Pháp.
Hai tay
vuốt dọc hai bên đầu, đưa long qua đầu thì hai bàn tay chụm, ốp lại với nhau,
thành Thế Thiên Pháp.
5- Thiên Long xuất thế:
Hai chân
hơi khuỵu xuống, đầu gối hơi chùng.
Hai tay
Tam chỉ, vuốt kéo long hai bên, chui xuống giữa đỉnh đầu, xuống 2 vai, cuộn tay
đưa long ra ngoài.
Hai bàn
tay dựng lên, hướng ra ngang vai, long chui ra qua 2 lòng bàn tay, bay ra
ngoài.
Thả lỏng
hai bàn tay, bàn tay múa vờn phía trước bụng, vẫy vẫy từ ngoài cuộn vào gần
bụng; hình dung hai long từ trước mặt,
theo hai tay vẫy, chui vào đan điền.
Hai tay
áp vào gần bụng, các đầu ngón tay chạm nhau, ốp đầu các ngón hai bàn tay vào
nhau thành hình chữ V, mũi tay hướng ra ngoài. Chân đứng thẳng lại.
6- Thiên Long nối sao:
Vẫn đứng.
Hai tay cuộn ngược vào trong, lưng hai bàn tay chạm nhau, hai ngón tay cái chạm
nhau; hai ngón út chạm dọc giữa bụng, đầu mũi hai bàn tay chĩa sát bụng, hướng
lên ngực.
Long nối
giữa các sao trước bụng. Long lên đến giữa sao 6.
7- Thiên Long nhả ngọc.
Đứng như
trên. Tay vẫn như cũ. Hai Thiên long lúc này cùng nhả viên ngọc trong miệng ra,
viên ngọc sáng lên lấp lánh, 2 long liền vui mừng, xoay cuộn lấy nhau, ôm lấy
viên ngọc ở trong sao 6.
8- Thiên Long xuất khiếu.
Đứng như
trên. Hai long ngậm hạt châu, xoay tròn 3 vòng.
Hai bàn
tay tam chỉ, đẩy ra trước mặt, song song. Hai long chui ra khỏi sao số 6, bay
từ từ ra. Khi bay ra, chúng cuộn tròn bên nhau.
Nếu lúc
này, mà ta đã có khai nhãn và đưa tượng pháp lên trung giới rồi, thì cho nó bay
lên trên đó, bay xung quanh tượng Pháp trên trung giới 3 vòng rồi về.
Dùng tay
múa, vẩy vẩy hai mũi bàn tay vào trán, thật chậm, bàn tay dẻo, gọi long về.
Long bay về, chui từ từ vào sao 6, chạy thuôn ra phía sau, chui qua huyệt đại
chẩm, bay ra phía sau, bay lên cao, khi nó lên cao trên đầu, thì hai tay về Thế
Thiên Pháp.
9- Thiên Long giáng Pháp:
Thế Thiên
Pháp. 2 long theo 2 tay, chui xuống qua hai tay, chạy dọc thân theo cạnh sườn,
xuống chân, rồi chui ngược lên chân phía trước. Long chui vào Tượng Pháp tại
Đan điền, xoay tròn, gọn trong hoa sen.
Hai tay
về Thế Nhân Pháp, rồi Thế Địa Pháp. Nhìn rõ tượng Pháp nổi sáng tại đan điền
rồi mới thu công.