Menu

Thứ Năm, 6 tháng 7, 2017

BÀI 6-7: THU-XẢ KHÍ QUA CÁC SAO, CHÂN, TAY - HAI VÒNG TIỂU NĂNG VÀ ĐẠI NĂNG

  BÀI 6-THU-XẢ KHÍ QUA CÁC SAO, CHÂN, TAY

Sau khi đã khai sao, luyện cách lấy khí qua các sao: Khí dương qua các sao lưng, khí âm qua các sao bụng.

Chú ý: Không tham nén khí tại các sao-trừ sao 3. Cấp này cấm dùng sao 6-nguy hiểm-Xả khí qua các sao, thông khí các trung tâm-tẩy khí độc ra ngoài-Xả khí-Thu khí qua Dũng tuyềnLao cung.
                           

BÀI  7-HAI VÒNG TIỂU NĂNG VÀ ĐẠI NĂNG

                               Tập thu Tiểu khí vòng 1 và vòng 2


1-Ngồi theo hướng: Nếu tập vào giờ:
-11-1h đêm......... mặt quay hướng Bắc.
Ngọ-11-1h chiều:.........Nam.
Mão-5-7h sáng:...........Đông.
Dậu-5-7h tối:...............Tây.
-Nếu nằm cũng được: Đầu kê cao vừa phải, hai tay đặt trên ngực, xỏ vào nhau, hai đầu ngón cái chạm nhau, hai chân song song, duỗi thẳn
Tư thế ngồi xếp bằng tự nhiên, hoặc nằm như tập thở, thiền. Ngồi thẳng lưng, không ưỡn, không vẹo, không cố cứng người, xương sống dù nằm hay ngồi phải thẳng. Đầu lưỡi chạm vòm nướu răng trên, hai mắt nhắm.
2-Bái niệm. 

3-Chụm đầu cả 5 ngón tay lại, như một bông hoa sen khép cánh, hoặc hai ngón nào cũng được, chĩa lên trên, đặt trên đầu gối. Xả trọc, bỏ tạp niệm, tập trung ý để tập. Thở mà không như thở. Mắt nhắm.
-Tạo các vòng bảo vệ xung quanh như bài Thiền.

4-Dẫn khí:
-Hít vào: Hình dung có một dòng khí sáng từ Tượng Pháp trên cao chạy xuống.
Hình dung Ánh sáng trắng như tuyết, từ từ chuyển xuống thân mình, vào qua mũi, đi dưới da, mảnh và dài như cây đũa, chạy dưới da khoảng 1 cm, chạy từ lỗ mũi, qua Nhân trung, xuống dọc giữa ngực, xuống bụng, xuống tụ tại Đan điền, xoay tròn hình bông hoa sen trắng, theo chiều kim đồng hồ, đếm từ 1 đến 9, vừa đếm vừa nén dồn khí lại, bông hoa sen co lại, thu tụ vào, hình nhuỵ da cam hoặc vàng.
-Thở ra: Khí trắng từ Đan điền theo chiều ngược lại, trở lên mũi. Khí từ từ qua lỗ mũi, mỏng nhẹ như làn khói, đẩy theo khí ám, bệnh ra ngoài, đi xuống dưới bên phải hoặc bên trái.
Tập 9 lần/ một lượt tập
-Ứng dụng: Có thể hình dung khí đi từ Bách Hội xuống cũng được.
-Khi đạt cao cấp thì có thể thiền-công ở bất cứ lúc nào, ở đâu; không nhất thiết phải chuẩn bị, đều có thể thu phát khí được.

                                             Thu tiểu khí vòng II
Bước 1: Tập đến bước 2 của vòng I. Không cho khí đi trở lại.
Bước 2:-Sau khi đếm đến 9, cho khí đi xuống bụng dưới, qua Hội âm, rồi qua hậu môn, nhíu lại một chút để nối Nhâm và Đốc mạch, sau đó khí đi qua xương cụt, lên dọc xương sống, qua cổ, lên đỉnh đầu, rồi xuống trán, xuống mũi, thở ra, như vòng I. (Vòng này nối mạch Nhâm và mạch Đốc. Nhâm Đốc thông thì các kinh mạch khác cũng thông và tạng phủ sẽ không bị bệnh).
Tập 9 lượt.
-Ứng dụng: Có thể tập kéo khí ngược lại, từ Bách Hội, xuống Đốc, rồi lên Nhâm, ra mũi cũng được.
-Khi tập xả khí trọc, thì xả xuống từ Bách Hội xuống đến Hội âm, theo hai đường Nhâm, Đốc đều được. Sau khi xả trọc khí, thì tập dẫn khí như trên. Sau này tập đã quen, thì nhất thiết trước khi tập dẫn công khí, phải xả trọc theo các sao và theo hai đường Nhâm Đốc, trước khi thu-nén khí, hay dẫn khí, chữa bệnh.

Chú ý:
-Trong khi tập, có khi khó hình dung được khí trắng, có khi là đỏ, vàng, đen-là do tâm thể bị bệnh, hoặc thể vía xấu, kiên trì tập sẽ thành trắng.
-Khi tập, có khi khí tán loạn, không theo dòng mảnh như cái đũa, mà tán ra, phải cố gắng dồn ý cho đúng; nếu không hình dung được, khí cứ tán ra thì ngừng tập, tĩnh trí lại, bỏ ngay suy nghĩ và tạp niệm. Trường hợp không hình dung được dòng khí chuyển thì ngưng tập. Trường hợp khí bị tắc, ở chỗ nào là chỗ đó bị bệnh.
-Khi tập, bất ngờ bị rúng động, ớn lạnh như trúng gió, tâm bấn loạn, hoặc thấy có luồng khí như điện chạy vào người...đó là tẩu hoả nhập ma: Khí tà, vong lạ vào các luân xa, huyệt do huyệt bị mở ra quá. Lập tức phải gồng người, dồn khí về Đan điền, co bụng lại, rồi hình dung: đóng nắp các luân xa:  3-ở Đan điền, 4-ở giữa ngực, 5-ở cổ họng, 6- Ấn đường và 7-đỉnh đầu. Xoa nóng các nơi này và hai lòng bàn tay, chân ngay. Nếu thấy đau, phải dồn khí vào nơi đó. Hình dung có vòng sáng bảo vệ xung quanh thân mình.

                                            THU ĐẠI KHÍ VÒNG I VÀ II
1-Thu Đại khí vòng I:
1-Cho khí đi từ mũi, đi thẳng xuống Đan điền, tụ lại, đếm đến 9 thì cho đi xuyên ra sau qua huyệt Trường cường ( gần xương cụt), rồi xuống mông phải, đi dọc phía sau chân phải, xuống qua gót chân, vào huyệt Côn lôn ở hõm gót chân, đi vào dưới Dũng tuyền, từ Dũng tuyền, đi qua má bàn chân phía trong, đi xuyên lên qua huyệt Tam Âm giao, rồi đi dọc theo cạnh chân phía trước, đi lên ở phía người trước, đến Đan điền, đi xuyên vào Đan điền ra sau lưng, đến Mệnh môn thì kéo dọc lên theo mạch Đốc, dọc lưng, lên đỉnh đầu, xuống mũi, thở ra.
Tóm tắt: Từ Đốc-Đan điền-Xuyên ra Trường cường-sau chân phải, trước chân phải, Đan điền, sau lưng, lên đầu, ra mũi.
2-Làm chân trái tương tự như chân phải, nhưng ngược lại:
Từ Đốc-Đan điền-Xuyên ra Trường cường-sau chân trái, trước chân trái, Đan điền, sau lưng, lên đầu, ra mũi.
Làm 9 lần/1 lần tập.
Mục đích của bài này là thông hai đường Nhâm Đốc và các đường khí của chân-đặc biệt là kinh Bàng quang, Thận, Can, Tỳ, Vị để hoạt hóa khí-năng lượng các tạng phủ đó. Đồng thời tập cho quen để dẫn đường Đại khí vòng 2 phức tạp hơn.

                                  PHẦN GIẢNG BÀI BỐ SUNG  CỦA THẦY

·       Khí đi từ mũi-qua Nhân Trung thuộc Đốc mạch mà đi xuống Nhâm mạch là nối thông âm dương chính khí-đi xuống vào đến Đan điền là vào trung tâm năng lượng cơ thể Mệnh môn-thần bản mệnh và là nơi ngũ khí triều ngươn tụ về trung cung bản thể, hợp vào nguyên khí Tiên Thiên-thông khí và lấy khí ở đây rồi sau đó dẫn khí thông xuyên ra huyệt Trường cường thuộc Mạch Đốc-nhưng lại là huyệt thông với lạc của kinh Thận-nối Lạc với Mạch Nhâm-đồng thời lại là đường nối Biệt với Kinh Bàng quang; nó còn nối với vòng số 8 của Luân xa 1-rất quan trọng; sau đó đi xuống mông-đi xuống phía dưới bụng chân thuộc kinh Bàng quang, là thông kinh Bàng quang-thông cả kinh Biệt của Thận và Bàng quang-là hợp nhất 2 đường kinh quan trọng nhất cơ thể là Bàng quang-Thận,
·       Dẫn khí đến huyệt Côn Lôn có một đường nhánh mà đông y không biết nối chéo với Dũng Tuyền và nó thông lên đến tận Tâm bào lạc của luân xa 4 và hai vai.
·       Dẫn khí xuống Dũng Tuyền, Dũng Tuyền thuộc kinh Thận-nhưng Thầy trong quá trình quan sát thì nó vẫn có vẻ thuộc về kinh Bàng quang nối lên đến tận huyệt Trúc Tân nối với Tâm Bào kinh lạc xuống đến đó. Từ Trúc Tân kinh mạch đi xuống kinh Bàng quang chứ không đi lên theo kinh Thận.
·       Dũng tuyền là luân xa 8-9 của con người, Dũng Tuyền có một đường nối ra mé chân út nối với kinh chính Bàng Quang là dương kinh; từ kinh Bàng Quang đi lên mặt chân ngoài, nhưng kinh Biệt của nó lại đi phía trong nối với kinh thận. Khi đi đến Dũng tuyền, chúng ta dẫn khí đi lên huyệt Tam Âm giao là huyệt Hội của ba kinh Âm là Can-Tỳ và Thận. Từ Dũng tuyền, đi qua má bàn chân phía trong, đi xuyên lên qua huyệt Tam Âm giao, rồi đi dọc theo cạnh chân phía trước, đi lên ở phía người trước-tức là dẫn khí theo kinh Thận vào đến Đan điền, nhìn hình vẽ thì chúng ta thấy có đường đen đi vào Mệnh Môn hỏa hay Đan điền rồi nó xuyên vào Tam Tiêu đi lên cổ và vai. Như thế là thông với cả Tam Tiêu. Đến đây Đạo trời âm dương hợp nhất trọn vẹn. Cân bằng Âm-Dương.
·       Từ Đan điền chúng ta dẫn khí đi xuyên ra sau lưng, ra Mệnh môn-coi như thông Luân xa 2-rồi thì kéo dọc lên theo mạch Đốc, dọc lưng, lên đỉnh đầu, xuống mũi, thở ra. Như thế là thông Đốc mạch.
·       Toàn bộ đường đi của bài này thông tất cả các kinh âm thuộc Chân cũng là Chân Khí chính vị quan trọng nhất của cơ thể, dẫn thông khí triều ngươn đã đành mà còn dẫn khí từ trung cung đi xuyên thông và nối với các kinh dương hội ở Đốc của cơ thể.
·       Nếu luyện tốt bài này, cơ thể sẽ họat hóa năng lượng tối đa, tẩy lọc cơ thể; chữa các bệnh tật về tim mạch, huyết áp, đau lưng, đau thận, đa xương sống, thoát vị đĩa đệm, hoặc đau thần kinh tọa sẽ thuyên giảm. Đồng thời kết nối và thông với nguyên khí Vũ trụ tốt hơn, làm thân tâm hài hòa và hòa nhập với Vũ trụ tốt hơn.


                      ẢNH  LỘ TRÌNH CHỨNG MINH ĐƯỜNG ĐI CỦA BÀI NÀY:


Thu Đại khí vòng II


Có ba cách dẫn cơ bản:
Cách 1: Cho khí đi từ mũi, đi ngược lên Đốc, đến Bách hội, xuống Đại chùy, thì chui sang Thiên đột.
-Từ Thiên đột đi dọc theo Nhâm, đến ngực thì ngưng hít; xuống Đan điền, tụ khí nhẹ tại Đan điền, rồi đi xuyên ra sau lưng, đi dọc Đốc dưới, qua Trường cường, qua sang mông phải, đi dọc theo mé trong-sau chân phải, xuống Dũng tuyền, đi xuyên bàn chân, đi lên dọc phía trước chân phải, đến bụng trước, đi vòng sang phía trước chân trái, rồi qua Dũng tuyền chân trái, vòng ra phía sau chân trái, đi lên lưng, đến Mệnh môn sau lưng, đi dọc theo Đốc lên đến Đại chùy, chui sang Thiên đột ở cổ họng, đi vòng phía mặt trước tay trái, đến huyệt Trung Xung ở ngón tay giữa trái, đi vòng lên theo đường ngoài tay trái, đến vai trái, chạy vòng sang vai phải, đi qua mặt ngoài tay phải, qua Quan xung tay phải, đi vào mặt trong tay phải, đi lên vai, vào cổ, lên mũi, thở ra.
(Mục đích của đường này là thông Nhâm-Đốc-Luân xa 1-2-5-các kinh âm dương của tay chân; đồng thời không cho khí bẩn đi vào não; cân bằng âm dương khí ngay tại 2 trung tâm là Đại chùy, Thiên đột).
Cách 2:-Gần giống như cách 1-chỉ khác là không cho khí xuống qua Nhâm, mà qua kinh Can, Đởm của 2 bên, nhằm hoạt hóa năng lượng của 2 kinh rất qua trọng này, nhằm sơ can tiết khí). ( Theo kinh nghiệm, thì ở vòng Tiểu năng, chúng ta đã thông Nhâm Đốc rồi, vòng này không cần thông Nhâm, Đốc, mà thông các đường kinh khác. Thầy thường tập cách này)
Cách 3: Ứng dụng cả 2 cách trên: Cho qua Nhâm-Đốc và cả kinh Can-Đởm.
( Hình minh họa cách 3)
Chú ý:  Đây là bài tập khó, vì nín hơi, quán khí lâu, người yếu hoặc người chưa học tốt các bài trước chưa được tập, nếu không sẽ dễ bị loạn khí, tẩu hoả. Phải có bạn hướng dẫn, hoặc tập thử và hình dung nhiều lần cho quen, mới dẫn khí.

                                                  Thầy giảng kỹ về Cách 1:

Cách 1: Cho khí đi từ mũi, đi ngược lên Đốc, đến Bách hội, xuống Đại chùy.

Chúng ta cần ghi nhớ tất cả các huyệt đạo cực kỳ quan trọng của đường đi từ mũi ngược lên Đốc rồi đến Đại trùy như sau:

Nhân trung ( Đc.26)                   
 Huyệt Lạc Hội của mạch Đốc với kinh thủ Dương minh ( Đại trường ) và túc Dương minh ( Vị).
Ngân giao ( Đc.28)                    
 huyệt Hội của mạch Đốc với mạch Nhâm và kinh túc (Dương minh ( Vị).
Thần đình ( Đc.24)                     
 Huyệt Lạc  Hội của mạch Đốc với kinh túc Thái dương (Bàng quang ).
Bách hội
      (Đc.20)                         

 Huyệt Lạc  Hội của  mạch Đốc với 6 kinh Dương.
Não Hộ ( Đc.17)                        
 Huyệt Lạc  Hội của mạch Đốc với kinh túc Thái dương ( Bàng quang)
Phong phủ

( Đc.16)                   
Huyệt Lạc  Hội của mạch Đốc với mạch Dương Duy và kinh túc Thái dương ( Bàng quang).
Á môn
( Đc.15)                         
 Huyệt Lạc  Hội của mạch Đốc với mạch Dương Duy.
Đại chùy
( Đc.14)                      
 Huyệt Lạc  Hội của mạch Đốc với 6 đường kinh dương .

·       Đàn ông thì khí nghịch từ Trường cường lên, còn Đàn bà thì khí đi ngược lại từ Bách Hội đi xuống, lên bài tập này rất tốt cho đàn bà, mà đàn ông cũng tốt vì dẫn khí trực tiếp thông đầu Đốc mà không phải dẫn qua Nhâm, tránh làm bẩn dòng khí quan trọng này.
·       Như vậy, khi thông đến Đại trùy, thì coi như thông nối với tất cả các đường kinh chính quan trọng.
Đến Đại trùy chui sang Thiên đột. Thiên đột là Hội của 6 đường Kinh Âm nối thông với mạch Âm duy-nhìn hình: 
·       MẠCH ÂM DUY:
- Khởi lên ở chỗ giao nhau của các kinh âm.
- Duy trì và liên lạc các kinh Âm.
- Giao hội với: Túc Thái Âm Tỳ ở huyệt Phủ Xá (Tỳ 13), Đại Hoành (Tỳ 15), Phúc Ai (Tỳ 16). Túc Quyết Âm Can ở huyệt Kỳ Môn (C 14).
- Nối Mạch Nhâm ở huyệt Thiên Đột,  Liêm Tuyền.
Như vậy thì nối sang Thiên đột đã thông với 6 kinh âm ngay tức khắc, đồng thời nối thông luân xa 5. Luân xa 5 chủ quản cả vùng ngực và thông với Tâm bào-Tiểu trường, Tam tiêu-Tâm, Đại trường- Phế. Đây cũng là bí quyết luyện khí dẫn thông kinh mạch của chúng ta. Chúng ta cũng biết từ Trúc Tân nó nối với kinh Thận và Bàng quang. Bàng quang lại nối với Đan điền và Thận lại nối với Đan điền và Tam tiêu ở phần dưới.

·       Từ Thiên đột đi dọc theo Nhâm, đến ngực thì ngưng hít. Tại sao lại hít thở đến đây, là vì khí qua mũi, nhưng dẫn nguyên khí khác khí thở-hít thở thì khí trời vào phổi, mà dẫn nguyên khí thì đi đến ngực cũng dừng, là hợp nhất khí Ôxy với nguyên khí ở đây, hình thành Tiên thiên nguyên khí hợp với Hậu thiên khí-Luân xa 5 thông đến đây là  Luân xa 5 Dương hợp Luân xa 4 Âm. Đến đây Đạo trời âm dương hợp nhất cân bằng.
·       Bắt đầu ngưng thở-dẫn khí xuống Nhâm-thực ra mà nói thì Nhâm bắt đầu từ Thiên đột mới đúng, vì có đường kín đi lên Ngân Giao nối Đốc, còn đường chính phải tính từ Thiên Đột. Dẫn nín khí là tiếp tục dẫn nguyên khí xuống Đan điền để ngũ khí triều ngươn.
·       Xuống Đan điền, tụ khí nhẹ tại Đan điền, rồi đi xuyên ra sau lưng, đi dọc Đốc dưới, qua Trường cường, qua sang mông phải, đi dọc theo mé trong-sau chân phải, xuống Dũng tuyền, đi xuyên bàn chân-đi lên dọc phía trước chân phải -Cách này là thông kinh Thận nối sang kinh Bàng quang-đi vào bụng trước-Tức là đi đến háng nối với Luân xa 1-thông Nhâm-cuối Đốc.
·       Đi vào bụng trước-chúng ta thống nhất đến huyệt Trung  cực-của Nhâm.

·       Huyệt Trung cực:
Huyệt ở giữa (trung) rốn và xương mu, được coi như là 2 cực, vì vậy gọi là Trung Cực.
+ Huyệt thứ 3 của mạch Nhâm.
+ Huyệt Hội của mạch Nhâm với 3 kinh âm ở chân.
+ Huyệt Mộ (chẩn đoán) của Bàng quang.
+ Là nơi tiếp thu khí của 1 nhánh Bàng quang.
+ Huyệt hội của các kinh cân - cơ của Tỳ, Thận và Can.

Sau đó tiếp tục:
·       Đi vòng sang phía trước chân trái, rồi qua Dũng tuyền chân trái, vòng ra phía sau chân trái, đi lên lưng, là thông kinh Thận trái và Bàng quang trái. Đi lên lưng-tức là không vào Đan điền nữa-không lặp lại vào Đan điền mà xuyên ra Trường cường để nối thông mạch Đốc luôn.
·       Đến Mệnh môn sau lưng-hợp nhất của Luân xa 2-là thông suốt một vòng hành khí Âm Dương hợp nhất từ Đan điền ra-Đạo Trời thông suốt trong bản thể.
Tiếp tục:
·       Đi dọc theo Đốc lên đến Đại chùy, chui sang Thiên đột ở cổ họng, đi vòng phía mặt trước tay trái, đến huyệt Quan xung ở ngón tay trái, đi vòng lên theo đường ngoài tay trái, đến vai trái, chạy vòng sang vai phải, đi qua mặt ngoài tay phải, qua Quan xung tay phải, đi vào mặt trong tay phải, đi lên vai, vào cổ, lên mũi, thở ra.
Đây là vòng khó hình dung, phải tập nhiều lần mới nhớ:
Đốc lên Đại trùy là thông các đường kinh dương-chui sang Thiên Đột là lại thông các kinh âm một lần nữa-đi từ cổ họng đi vòng sang phía mặt trước tay trái cũng là đi thông huyệt Khuyết Bồn là tổng huyệt nối kinh Thận-Can-Tâm rồi-chúng ta hình dung dẫn khí theo kinh Tâm ra đến đầu ngón tay giữa là huyệt Trung Xung. (Không phải Quan Xung).
Tiếp tục:
·       Đi vòng lên theo đường ngoài tay trái, đến vai trái...
Đi vòng theo đường ngoài tay trái tức là tiếp nối phía ngoài của huyệt Trung xung đi theo đường kinh lạc của Tâm bào nối với Tam Tiêu, đồng thời coi như nối dẫn theo kinh Tam Tiêu:
Nhìn hình:
Tiếp tục: Đến huyệt Thiên Liêu-bản chất của huyệt này là một huyệt rất quan trọng, là huyệt vị lớn thứ 18 trong Tổng huyệt cơ thể. Thông Thiên Liêu là thông toàn bộ nguyên khí vùng vai, lưng trên và họat hóa năng lượng của toàn bộ luân xa tim-đây là một huyệt quan trọng chữa bệnh tim mà đông y chưa đề cập đến. Thông huyệt này, ngực tim sẽ nhẹ đi rất nhiều. Vì huyệt này thông với cả Khuyết bồn-Trung Phủ và Cực Tuyền-Thiên tỉnh.
Tiếp tục:
·       Chạy vòng sang vai phải, đi qua mặt ngoài tay phải, qua Quan xung tay phải, đi vào mặt trong tay phải, đi lên vai, vào cổ, lên mũi, thở ra.
Tức là dẫn khí đi hết kinh Tam Tiêu bên phải, rồi đi vào huyệt Trung xung của kinh Tâm bào phải rồi dẫn khí theo kinh này lên cổ, lên mũi.
Như vậy vòng này hoàn tất một vòng Âm-Dương nữa phần phía trên cơ thể, thông Thượng Tiêu với Trung Tiêu và các đường kinh Dương-Nối Đốc-Đại Trùy với Kinh Âm-Thiên đột. Đạo Trời lại hợp nhất lần nữa trong cơ thể bản mệnh của chúng ta.