Menu

Chủ Nhật, 21 tháng 8, 2016

ĐẠO KINH THIÊN ĐẠO


ĐẠO ĐỨC VÀ CON ĐƯỜNG CỦA TIẾN HÓA ĐẠO ĐỨC, TÔN GIÁO. ĐẠO ĐỜI HỢP NHẤT.


9 ĐIỀU KHÔNG
1-Không  bỏ: Kính-thờ Thượng đế.
2-Không chiếm: Của cải, tài danh, hạnh phúc của người khác.
3-Không tham: Danh lợi, vật dục tầm thường.
4-Không nói: Gian dối, xảo ngôn, ác ý, hồ đồ.
5-Không quên: Người nghèo khổ, hư dốt.
6-Không gây: Hận thù, chiến tranh, giết hại chúng sinh.
7-Không ở: Bẩn thỉu và phá hại môi trường.
8-Không nghiện: Các chất kích thích nặng.
9-Không ngừng: Xây dựng Thiên đường Hạ giới


               
ĐẠO PHÁP: THIÊN ĐẠO
                          
Thiên Đạo tu Tâm

Không chấp vào hình tướng, sự thờ phụng, kinh sách, kinh sách là phương tiện ban đầu cho nhận thức, sau bỏ kinh sách mà quay vào Tâm-tu luyện cho cái Tâm mình LÀNH THIỆN-TÔN KÍNH THƯỢNG ĐẾ-LÀ CHA ĐẺ RA LINH HỒN MÌNH-Là đắc đạo, sẽ được Thượng đế cho thoát chuyển luân hồi.
Thoát luân hồi của Thiên Đạo là về Thiên Giới ( Cõi Cực lạc-Niết bàn-Thiên đường)-nơi Cội Gốc của mình, gặp lại Thượng đế và trụ vào cảnh giới cao quý, và ngược lại.
Muốn thế phải tu tốt, nhận thức tốt về CON ĐƯỜNG THOÁT LUÂN HỒI.
                                    TU TÂM (TU ĐẠO CHÍNH)
Thực hành tốt: 7 lý Luyện Tu, 8 Phép Tinh tấn và 9 điều Không, 9 Phép Nghi Lễ là đắc đạo.
Ngoài ra luyện công (luyện xác) tập trung vào 9 bài Luyện công Thiên Pháp.
Lý luận thu gọn lại như vậy; các phần kinh khác, đọc qua tham khảo.

SỰ MẠT PHÁP CỦA CÁC  TÔN GIÁO CÓ TRƯỚC THIÊN ĐẠO
                                
I-Tính chất chung
1-Về giải thích thế giới, và thế giới tâm linh: Không một đạo giáo nào giải thích chính xác về thế giới, về khoa học tâm linh và các hiện tượng tâm linh, thế giới vô hình, linh hồn chính xác, trên cơ sở khoa học vật lý lượng tử hiện đại. Một số đạo dùng bí hiểm tâm linh để dẫn dụ tín chủ; lại có pháp môn phức tạp, kinh tự rắc rối. Bất lực trước một số hiện tượng tâm linh, như hiện vong, nhập vong, xem bói, tiên tri, xác thân bất hoại, thần giao cách cảm, tâm năng điều khiển, linh tính, giấc mơ, xuất vía…Không giáo chủ tôn giáo nào được và đã được Thượng đế cho thấy Người bằng mắt huệ, để Người giáo dạy trực tiếp! Nên có khi hiểu sai về Cha, hoặc dùng bí hiểm mô phỏng, dẫn dụ tín chủ, dọa nạt tâm linh tùy tiện.
2-Không một đạo giáo nào đưa ra lý luận triết học tự nhiên và lý luận triết học xã hội, xây dựng con đường và biện pháp cải tạo xã hội loài người, để loài người thực sự thông minh, thông linh, văn minh, đạt đại thiện, đại mỹ, để đạt chính quả, siêu thoát ngay khi sống, nhưng lại cũng cải tạo, xây dựng xã hội an lạc. Họ chỉ đưa ra các biện pháp và tiêu chí đạo đức. Về mặt lý tưởng xã hội HẠ GIỚI là  không. Đạo Ki-Tô mơ đến thiên đường trên cao, Chúa đưa hội thánh lên không trung trong tận thế, rồi xây nước trời ngàn năm bình an. Cái nước trời ấy ở đâu, trên trời hay dưới đất, xây nó như thế nào, đặc điểm của nó ra sao, thì rất mơ hồ, không có triết lý và phương pháp tiến hành cụ thể. Tức là không có cách mạng xã hội và cách mạng tâm linh. Trong khi nhân loại còn tồn tại hàng tỷ năm, vậy nhân loại sống như thế nào, ra sao, vào chùa hết hay lên thiên đường hết, thì không ai lý giải được.
Đạo Phật tu đạt giác ngộ, diệt dục, xuất thế, xa rời các nguyên lý tồn tại của xã hội là sinh sống, sinh sản của loài người. Tu đạt siêu thoát-tức đạt trạng thái Niết bàn, chết đi lên Niết bàn. Nhưng còn xã hội hiện tại thì ai lo? Tu sỹ Phật giáo còn phải ăn, phải mặc, dùng vật phẩm của chúng sinh, vậy còn nghiệp phải trả, vì tu chỉ ích mỗi bản thân thôi. Người ta đi chùa cầu Phật, nhưng họ không hiểu nhiều về đạo đức và đạo pháp nhà Phật. Ngày nay và mai sau, pháp Phật có độ, cứu nhân loại khỏi chiến tranh, bệnh họa không? Phật tổ đã nói: vào thời mạt pháp, tu sỹ độ mình đã khó, nói chi đến độ người.
Cho nên Hồ Chí Minh có nói:  Ông Bụt trong chùa hiền lành tốt tính, nhưng chả giúp được gì.
Khái niệm xã hội Thánh Đức là của đạo Phật, vậy Ta hỏi: Muốn có Thánh Đức phải làm gì? Xây nó ra sao? Nó như thế nào? Ai sẽ xây nó, vào chùa xây hay sao? Hay là khuyên người ta sống có đạo đức là được?
Đạo Phật chờ bồ tát Di Lặc giáng lâm, xây Thánh Đức, vậy Di Lặc xuống với hình ảnh ông béo à? Mặc áo cà sa vào chùa xây Thánh Đức sao? Ai đã biết mặt của Di Lặc thế nào? Bao lâu nữa, tới 8400 năm sau khi Thích Ca nhập diệt, Di Lặc mới giáng lâm, vậy đến lúc đó, xã hội loài người sẽ ra sao? Rất siêu hiện đại rồi, vậy Di Lặc sẽ dạy gì vào lúc đó?
Nay Phật Thích Ca đã hết nhiệm kỳ lãnh đạo, đã về giời, tất cả các cảnh chùa đã không được còn giáng bóng nữa. Đây là luật mới của Thiên đình. Ngoài ra, như chúng ta biết, Phật coi Thượng đế là Phạm Thiên Vương. Thiên Vương là một vị thần lãnh đạo một tinh cầu, như quả đất, sao Hỏa…Có rất nhiều vị Thiên Vương. Cho nên sai lầm, tín đồ phật giáo hiểu sai, phạm tội bất kính với Cha! Cha là đấng Đại toàn năng, còn sinh ra cả Phật Thích Ca, cho Ngài xuống thế gieo đạo. Chúng ta nên nhớ, Ấn Độ giáo-hay đạo Bà La Môn-thờ đấng Brahman-tức Thượng đế. Phật Thích Ca, vì thấy Ấn giáo suy đồi, không cứu độ được đau khổ cho chúng sinh, nên vì thương xót chúng sinh, Ngài đã phát nguyện, tu luyện và sáng tạo ra pháp môn mới, trên nền tảng của Ấn giáo, vẫn là phép tu thiền, luân hồi, kiếp nghiệp quả luân hồi, nhưng chủ trương thoát tục để thoát khổ; chủ trương không có ta-tức là vô ngã; trong khi Ấn giáo xác định con người là tiểu ngã-linh hồn, trong đại ngã-thượng đế. Đây là khác biệt chính yếu của Đạo Phật, và khi đạt trạng thái niết bàn, thì trở về hư vô, về không-thực chất là trở về với Cha, hết luân hồi. Nhưng đạo Phật nguyên thủy không công nhận có linh hồn, Thượng đế. Nay các đức Phật đã đắc đạo, linh hồn họ vẫn đang hiện hóa, hồn người ta nhìn thấy hàng ngày, thì lý thuyết nhận thức kia còn đúng hay đã sai? Và Đức Phật nói: Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn, vậy đúng hay sai? Ta chỉ biết có một vị duy ngã độc tôn, đang tưới đức và sinh ra tất cả, là Thượng đế!
Cha vẫn đang lãnh đạo cả chư thần-thánh-tiên-phật. Trước khi ngài Thích Ca Mâu Ni xuống thế để gieo đạo Phật, thì Ngài đã trải qua vô lượng kiếp tu rồi.
Chính pháp của đạo Phật, như chính đức Phật nói trong kinh phật, chỉ phát triển có 2500 năm, sau khi ngài nhập diệt, rồi mạt. Nay Ngài đã nhập diệt được 2553 năm.
Đạo Phật nay đang hoằng dương hơn, nhưng nhân loại cần một cuộc cải cách vĩ đại để cả nhân loại thành một trường học, phải sống.
Đức Phật mãi là một bậc thầy khai ngộ về Đạo Đức và lòng từ bi cho chúng ta phấn đấu.
3-Nhiều luận điểm mang tích chất hoang đường trong kinh tự và pháp tu, đã làm khoa học hiện đại chống lại. Các tôn giáo này bí, do kinh tự đôi khi có những luận cứ quan trọng sai, thậm chí mang tính huyền thoại; nên dùng phương thức bảo thủ, bí nhiệm để lôi kéo con người. Thậm chí dùng thủ đoạn làm con người u mê, ngu đần, với cách muốn ngu để trị- có tính phản động!
Không có tôn giáo nào đưa ra được các qui luật lớn về Đạo Trời-Hay chính xác là khoa học về nhận thức các qui luật lớn trong tự nhiên và vũ trụ.
Các  tôn giáo trước đã có tính chất làm tôn giáo và khoa học chống lại nhau; vì sao: Vì sự bí nhiệm của pháp môn, bí hiểm tâm linh, không có khoa học tâm linh soi đường. Khoa học tâm linh không thống nhất được và không có điểm chung với khoa học lý hóa thô mộc, triết học duy vật thô mộc hiện có.
4-Các tôn giáo không ngừng miệt thị nhau, thậm chí dùng thần quyền tiêu diệt nhau, gây chiến tranh sắc tộc, chiến tranh tôn giáo, tôn giáo bị lợi dụng phục vụ tham vọng tàn độc bành trướng xâm lược trong suốt 2000 năm qua, như một vết nhơ trong lịch sử nhân loại. Dùng tôn giáo làm lá bài để chống các dân tộc khác, gây khủng bố, áp đặt quyền tự do và độc lập của các dân tộc.
“Thế Kỷ 20, ta thấy có khoảng 10 cuộc chiến mang tính tôn giáo:
Thứ nhất phải kể cuộc chiến ở Bắc Ái Nhĩ Lan giữa những tín đồ Tin Lành và Thiên Chúa Giáo thuộc La Mã đã kéo dài hàng thế kỷ.
Thứ hai: Cuộc chiến Bosnia và Kosovo giữa người Albania theo Hồi Giáo và người Serbia theo Chính Thống Giáo, cuộc chiến này còn mang thêm tính sắc tộc nữa.
Thứ ba: Cuộc chiến Croatia giữa những người theo Thiên Chúa Giáo La Mã và Hồi Giáo.
Thứ tư: Cuộc chiến ở Nam Sudan giữa những tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã và các tín đồ Hồi Giáo.
Thứ năm: Cuộc chiến giữa người Thổ Nhĩ Kỳ theo Hồi Giáo và người Hy Lạp theo Chính Thống Giáo tức Thiên Chúa Giáo, ở đảo Cyprus.
Thứ sáu: Cuộc chiến ở Kashmir giữa những người theo Hồi Giáo được Pakistan hỗ trợ với những người theo Ấn Ðộ Giáo được Ấn Ðộ hậu thuẫn.
Thứ bẩy: Cuộc chiến ở Ambon, Indonesia giữa những người Hồi Giáo và tín đồ Thiên Chúa Giáo. Trước đó là cuộc chiến tại Ðông Timor cũng của hai tôn giáo này.
Thứ tám: Cuộc chiến ở Sri Lanka giữa chính quyền theo Phật Giáo và phe Ấn Giáo đòi ly khai gọi là Hổ Tamil.
Thứ chín: Cuộc chiến tại Afghanistan trước đây giữa hai phe Hồi Giáo Taliban và Liên Minh Phương Bắc, nay là cuộc chiến chống khủng bố.
Thứ mười: Cuộc chiến tại Philippines giữa chính phủ theo Thiên Chúa Giáo La Mã và lực lượng Hồi Giáo gọi là Moro. Hiện nay đang có cuộc chiến tiêu diệt nhóm Abu Sayab theo Hồi Giáo, được coi như thành phần khủng bố có liên lạc với tổ chức khủng bố quốc tế Al Qaeda.
Mới đây nhất là cuộc xung đột tôn giáo đẫm máu tại Ấn Ðộ khởi đầu từ ngày 27-2-2002 giữa những người theo Hồi Giáo và những tín đồ Ấn Ðộ Giáo, chỉ trong vòng một tuần lể mà có tới 700 người chết và nhiều nhà bị đốt cháy tại bang Gujarat.”
 (Tư liệu Internet)

5-Đặc điểm chung nhất là: Sự suy vi của Chính pháp, dẫn đến sự suy loạn của Đạo đức và Đạo pháp, chính trong họ đang mâu thuẫn, chia rẽ và phản pháp; đồng thời nhận thức loanh quanh lại, đấu tranh và đưa ra các triết lý vụn vặt về để bảo vệ chính pháp. Thời mạt pháp của các đạo, ứng với thời mạt thế hiện nay, trước chuyển thế.
Chúng ta sẽ thấy, sự suy mạt khủng khiếp của các linh mục Ki-tô và Giáo hội…Nga cũng thờ Chúa, Mỹ cũng thờ Chúa, nước nào đúng trong đạo đức? Và sự mạo báng và bỏ pháp của rất nhiều ni sư, trốn đời vào chùa hưởng lạc…Đạo Hồi gắn với sự hỗn loạn đánh nhau ngay giữa phái Hồi là Sunite và Shiite.
6-Các tín điều đạo đức không phản ánh hết và không thỏa mãn được tính chất phức tạp của đời sống và không đủ khả năng răn đe một cách tự giác khoa học một cách lâu dài trong toàn bộ tiến hóa nhân loại.
7-Vấn đề siêu thoát: Không một tôn giáo nào có phương cách siêu thoát hiện đại và khoa học, đắc hiệu và nhanh chóng, được nhiều như chúng ta! Họ thường đọc kinh cầu chú, cho linh hồn tự giác ngộ hoặc phải dùng tha lực của các thần thánh tiên phật khác; vì họ không có lý luận về trường sinh học và linh hồn đúng đắn. Ki-tô giáo khi có người chết, đào sâu chôn chặt…thực tế quá ít linh hồn được siêu và còn lâu mới lên được cảnh giới 9 là Thiên đường!  Ngoài ra, Phật giáo cũng ít được Niết bàn-tức giải thoát.
Thực tế qua 2 năm ( 2008-2009), Ta đánh hàng trăm trận với tà ma, với số lượng có khi đánh bắt và cho siêu đến 9 triệu tên như trận đánh thần trùng, 12 vạn tên vong tướng lính quân Nguyên-Minh- Thanh ở sông Hồng, 1 vạn quân Hoàng Tàu bắc quốc, 3 vạn quân Tam vị Chúa bà, 2 vạn quân Bạch nữ thần… qua hàng trăm cuộc bắt tà, quỉ, cho siêu thoát, đấu phép cả với một số vị thượng linh, 2 lần bắt quan Hoàng Bảy chỉnh trị…đã có đủ luận cứ chứng minh về vấn đề linh hồn, thể vía, cấu tạo linh hồn và tu luyện, cải tạo thể vía…chữa bệnh siêu đẳng, đúng như lý luận siêu việt của chúng ta!
Ta đã từng gặp vô số vong là sư, có khi bị yêu tinh bắt làm quân, như trận đánh thần nữ yêu tinh tại Xóm 4 HB, có khi bắt vong là cố đạo nhập vào trẻ em.
Như vậy: Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, chúng ta là pháp môn tu tập siêu ngộ Chân Lý và có cách siêu thoát cho vong nhân siêu đẳng nhất, mà không có vị pháp chủ nào từ trước có thể làm được như Ta; ngoài ra, cũng lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, có sự kết hợp chặt chẽ Tôn giáo với Lý thuyết xã hội, giữa thần quyền với chính quyền, giữa khoa học hiện đại với khoa học về tâm linh và tôn giáo, thống nhất khoa học, thống nhất nhận thức về tín ngưỡng tâm linh-tôn giáo, thống nhất tự nhiên với lý tưởng về Thượng đế, giữa tự nhiên với con người, mà không có sự bí hiểm, bí nhiệm nào. Tất cả sáng rõ, trong sáng, chân chính, lý tưởng cao đẹp và triết lý khả thi, hơn bất cứ một triết thuyết xã hội hay tôn giáo nào đã có từ trước đến nay!
                                    Do đó, chúng ta không là tôn giáo.
Chúng ta theo Đạo Trời muôn năm của Vua Cha Thượng đế vĩ đại.
8-Vấn đề bàng môn, tả đạo: Khi Đức Thích Ca ra đời, đạo Ấn Độ giáo, Giai-na giáo đã có trước khoảng mấy ngàn năm với thuyết luân hồi, nhân quả; đặc biệt, pháp tu kiểu thoát tục Đạo sỹ Yôga đã có trước đó khoảng 6 ngàn năm. Một thời gian vô cùng lâu. Họ tập huyền môn siêu đẳng, siêu thoát ngay tại thế, xa lánh tục trần. Sau này, vì thương xót chúng sinh trầm luân trong bể khổ, Đức Thích Ca đã sáng tạo ra pháp môn mới, với hệ thống đạo đức và tu tập tự giác ngộ ( tự ngộ tự tha), trên cơ sở thiền truyền thống, xa tục trần xuất thế, nhưng có tổ chức ( thực tế là cải cách tôn giáo Ấn). Lúc đó, Ấn giáo coi ngài Thích Ca là bàng môn tà đạo. Đạo Phật không phát triển được ở Ấn Độ, phải sang Tây Tạng và phía Đông. Khi đạo Phật phát triển, chia thêm nhánh Đại Thừa, thì những người Tiểu Thừa coi đó là bàng môn. Sau còn rất nhiều pháp môn khác nhau. Đạo Ki-tô cũng có hoàn cảnh tương tự. Do Thái giáo thờ Chúa Trời-thánh Jê-hô-val có trước khi Jê-su ra đời mấy ngàn năm.
Tôn giáo là cụ thể, có tính cụ thể, lịch sử, phù hợp với giai đoạn lịch sử cụ thể của xã hội loài người. Lịch sử loài người đã có vô số các tôn giáo khác nhau, cái sau sinh ra từ cái trước, thừa kế tinh hoa và cũng là phủ định cái trước; cái trước có khi nói cái sau là bàng môn tà đạo. Nhưng cái nào hợp qui luật tiến hóa, và hợp với giai đoạn lịch sử phát triển kế tiếp của loài người thì tồn tại, phát triển, rồi mạt, diệt, theo qui luật thành trụ dị diệt, thành trụ hoại không, như muôn sự vật hiện tượng khác, không có gì là lạ.
Những người sáng tạo-ban đầu, luôn luôn bị chống đối, bị phá hại, thậm chí bị làm hại, theo qui luật phản phục, không có gì là lạ. Nhưng rồi, cái mới, cái tiến bộ sẽ đi lên, thậm chí có khi bị thụt lùi…
Vậy nhận thức của nhân loại, với tính cụ thể là các hình thái ý thức, trong đó có tôn giáo, đạo đức…luôn luôn phát triển từ thấp đến cao, theo chiều xoáy trôn ốc, đi lên, càng sau càng hoàn thiện. Ý thức, nhận thức nào hợp qui luật tất yếu tiến hóa và phù hợp với điều kiện phát triển mới của xã hội loài người thì tồn tại và phát triển, rồi cũng sẽ bị lụi tàn là tất yếu. Cái gì cũ, lạc hậu, sẽ tan rã; đương nhiên cái cũ sẽ chống lại cái mới sinh ra, bảo thủ sẽ chống tiến bộ, nhưng theo thời gian và qui luật, cái gì hợp lý, hợp qui luật thì tồn tại và đi lên. Vấn đề là ở chỗ tách ra, có cái nhìn chung, để đánh giá và phân tích, không vô minh, không kỳ thị, nhưng cũng không cố tình bảo thủ thành phản động, thậm chí gây tội ác chống lại tiến hóa. Xã hội, hay các triết thuyết cũng đều thế.
9-Về các nghi thức tâm linh: Đa số các tôn giáo đều rườm rà, nặng nề, thậm chí bắt dân đóng góp xây dựng nặng. Dân nghèo, xây lắm chùa chiền nhà thờ. Việc đưa vong cốt vào thờ trong chùa là sai lầm về linh pháp, vì chùa là nơi để con người tu hành, chứ không phải là nhà mồ; người ta đã hiểu sai việc nhờ Phật tiếp dẫn vong đi siêu, với chuyện cho vong vào chùa tu tập. Tu chỗ nào? Học ai? Nhiều vong nói với Ta là họ rất đói, lạnh, buồn thê thảm! Xin về nhà cho ấm áp! Việc chôn sâu không cải táng của Công giáo không diệt, hoặc làm tan rã được linh hồn, mà càng làm họ khó siêu thoát, trở lên bất trị và phá lại hạ giới. Địa ngục không phải dưới đất. Thực tế, yểm phong thủy…không phải lúc nào cũng được. Có quá nhiều các vong người Công giáo hành lại chính người thân, Ta chữa bệnh tâm linh, bắt họ, siêu, dạy, rồi mới bắt họ chữa cho người thân của chính vong đó.
Theo đạo, nhưng không ăn chay, không thiền công siêu đẳng, lại tham tiền tài vật dục danh, lợi, ghen tỵ, hoặc thèm khát khi tu, hoặc nhận thức tri thức thấp kém…thì làm sao chết siêu thoát được!?
Một số tôn giáo, từ khi ra đời đến nay, mang lại đau khổ, đau thương cho nhân loại, hơn là cứu rỗi, cứu độ! Đó là sự thật không thể chối cãi!
Cha là của chung, không phải là của riêng của bất cứ tôn giáo hay pháp môn nào.
Có hàng vô số pháp tu tập để về với Cha, pháp nào đã lạc hậu, tất suy bại.
Các vị hãy nghe chính những lời nhận xét của Cha về họ.
              ……………………..                     
Ngoài ra, cần nhấn mạnh: Thời Thánh Đức, thuộc về một giáo lý mới; bản chất xã hội Thánh Đức-thực chất là xã hội cộng sản Thiên Đạo tại thế này; người ta sống và tu tập học hành tại gia, mà vẫn hiền lương, đạt lục thông, đó mới là điều vĩ đại! Không thể vào chùa hết mà xây xã hội an lạc, nhân dân thái bình được. Cũng không thể khuyên chúng sinh sống đạo hạnh, giác ngộ Chân lý, giải thoát, khi xã hội còn điêu linh, đói nghèo và bệnh tật. Con người muốn tồn tại, không thể thoát ra khỏi cộng đồng được-xét nghĩa toàn thể nhân loại. Con người ta phải ăn mới đến Đạo, không thể khất thực của xã hội mãi được; không có ăn thì không thành đạo, Phật Tổ đã từng bỏ lối tu khổ hạnh để đi vào Trung đạo; mà Đạo là sự tồn tại của các qui luật, trong đó có qui luật sinh hóa. Không tiến hành cải tạo xã hội, thì không thể giải quyết tận gốc sự đau khổ của con người. Ai xuống thế, cũng vào chùa hết, thì ai làm cho mà ăn? Hoặc từ bi hỷ xả, xả thiền, bỏ tam độc là tham sân si…nhưng cuộc sống khốn nạn làm họ bầm dập, thì họ liệu có an nhiên tự tại hay loại bỏ sự đấu tranh trong bản thân và xã hội với nhau được chăng? Loại người dĩ hòa vi quí đáng sợ hơn cả, và chúng ta sợ nhất là loại người quá tốt! Đúng không khen, sai không chê, hỷ xả cho kẻ ác một vài lần, nhưng tổng số chúng thì thành họa cho xã hội! Chúng ta quá hiểu, thời mạt, kẻ hiền tài, người hiền lương hay bị oan trái, bị đọa đày, thiệt thòi thế nào rồi!
Hạnh phúc không phải là tu nhàn, mà là cống hiến cho loài người và tu tập khoa học đắc cách, để có hạnh ngộ phúc đạo, sống đạo đời hợp nhất. Chỉ có xã hội Thiên Đạo mới làm được Đại đồng Thánh Đức, giải phóng được nhân loại khỏi tội ác, chiến tranh, tham tàn và vô minh, vô thần, hoặc mê tín mê muội; lại chính thờ Cha thực của mình là Thượng đế-tuân theo luật Trời hay Đạo Trời, mà không tôn giáo nào hiện nay có thể mô phỏng hay thể hiện được một cách khoa học. Chúng ta là tiểu ngã trong đại ngã, tiểu hồn trong đại hồn, thực tế hiện nay linh hồn Phật tổ vẫn tồn tại, vẫn hiện hóa, chứ không phải là không. Thượng đế còn vô vàn đau khổ, vì con cái của Người còn đau khổ, đưa vài chục vạn người lên thượng giới trong một thế kỷ là quá ít, nhưng nếu thế giới này là một xã hội lành mạnh, thì sẽ có hàng chục triệu, hàng trăm triệu người đạt đạo. Còn mọi chư phật và bồ tát, đều luôn theo chỉ lệnh của Vua Cha. Các cổ thần, hay cổ phật, hay các thần thánh, hay các thần tinh…đều là một, là cách gọi khác nhau của các tôn giáo mà thôi; vì Nhân loại cũng chỉ là Một.
Tuy nhiên: Tương lai, chúng ta sẽ chọn lọc những tinh hoa cao quí của Phật giáo để xây Thánh đức là: Đạo đức cao đẹp, Bát chánh đạo, thuyết luân hồi, nhân quả (tất nhiên cần sửa lại), pháp thiền, vì không thiền, không thể đạt thần thông và năng linh. Phật Tổ mãi là người thầy vĩ đại của chúng ta.

Chúng ta cần kế thừa, phát huy tính tốt của Nho giáo Phương Đông: Ngày nay chế độ phong kiến không còn tồn tại với tư cách là hình thái chính trị, pháp quyền, cơ sở kiến trúc thượng tầng cũng như hạ tầng của nó đã bị sụp đổ; nhưng với tư cách là một hình thái ý thức đạo đức (đạo Nho) thì những mảng vỡ cuả nó vẫn còn, dùn ít dù nhiều, vẫn ảnh hưởng lớn tới xã hội phương Đông hiện nay. Do đó phải xét cái hay, cái dở của nó để góp phần xây dựng nền văn hoá mới phát triển lành mạnh theo tinh thần tiếp thu chọn lọc tinh hoa của nó, không phủ định sạch trơn mà kế thừa biện chứng có chọn lọc.
Một phần tư tưởng nho Giáo tồn tại, do các nguyên nhân sau: Do cơ sở kinh tế cơ bản vẫn là nông nghiệp với sản xuất lạc hậu, kiểu truyền thống. Ở Trung Quốc, Đông Nam Á…vẫn còn bộ phận kinh tế nông nghiệp nông thôn lạc hậu. Tính chất sản xuất nông nghiệp như thế này còn tồn tại khá lâu nữa, nhất là ở các vùng nghèo, kém phát triển, miền núi.

Đô thị hoá nhanh, nhưng diễn ra chủ yếu ở các đô thị lớn và quanh độ thị. Nông dân vẫn chiếm số đông. Làng xã, thôn xóm không khép kín như xưa, nhưng vẫn tồn tại văn hoá tiểu nông lạc hậu. Văn hoá chưa được hiện đại hoá toàn diện, chưa xoá hết mù chữ. Phong tục tập quán cổ truyền luôn luôn có xu hướng bảo thủ và phát triển rất chậm.
Trung với nước: Tinh thần trung quân ái quốc, trung với vua, hiếu với cha mẹ được cải biến thành trung với nước, hiếu với dân.
Đạo tam cương ngũ thường, ngũ luân của phong kiến, tạo ra riềng mối rường cột trong quản lý xã hội cũ, biến cải thành một số kinh nghiệm trong xây dựng các mối quan hệ mới, trong xây dựng thiết chế văn hoá, thiết chế chính trị, đạo đức, trong quản lý xây dựng gia đình và xã hội mới, con người mới.
Đức là nội dung quan trọng nhất của xã hội phong kiến; đức là phẩm chất, tập trung ở: Lễ, nghĩa, nhân, trung, hiếu, tiết hạnh. Ngày nay xã hội phương Đông vẫn trọng đức làm đầu: “Có tài mà không có đức như cây không có gốc, vô dụng lại có hại” (Hồ Chí Minh). “ Cái nết đánh chết cái đẹp”…do đó đạo đức vẫn là nền tảng muôn đời của xã hội. Ý nghĩa và tầm quan trọng đó ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
 Ngũ luân: Vua tôi, cha con, vợ chồng, trưởng ấu, bè bạn. Ngày nay quan hệ vua tôi thành quan hệ cá nhân với lãnh tụ, hiểu rộng ra là với thầy, với cấp trên, với tổ chức, vẫn cần có chuẩn mực, có tình, có lý, vừa là đạo lý làm người. Làm công dân phải trung với nước, con phải hiếu với cha mẹ, vợ chồng vẫn phải “tương kính như thân”, hoà hợp. Em phải kính anh, bạn bè phải nghĩa, hiệp, thuận, thân.
Tu thân vẫn là một giá trị quan trọng trong xây dựng nhân cách con người. Cả đời người lúc nào cũng phải tu thân. Thanh niên thì lập thân mới lập nghiệp, người thành đạt lập nghiệp mới lập ngôn. Giá trị danh chính-ngôn thuận vẫn còn tác dụng lớn. Hiền tài vẫn là nguyên khí của quốc gia. Con người ta sinh ra vẫn phải tuân theo luân lý chung, đó là đạo làm người. Có trí, lễ, nghĩa, trung, liêm thì mới thành nhân. Đặc biệt là cán bộ. Cụ Hồ dạy: “Trung với nước, hiếu với dân”, “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Đạo đức vẫn là cáo gốc của người cán bộ cách mạng.
 Cụ Hồ Chí Minh còn nói: “Học để làm người, học để làm cán bộ” phục vụ nhân dân. Xưa học để làm quan, nay học để phụng sự nhân dân, làm đày tớ của nhân dân.
 Nho giáo lấy đức trị làm đầu…xét cho cùng, tính chất ưu việt ở chỗ, lấy giáo dục thuyết phục làm trước, sau mới chế áp. Phương pháp giáo dục đạo đức vẫn coi trọng yếu tố làm gương trước, xử phạt sau. “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Trong gia đình và ngoài xã hội, bên cạnh việc bình đẳng về quyền lợi của cá nhân, và tổ chức do pháp luật qui định, vẫn phải có tôn ti trên dưới. Xác định chỗ đứng, chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của từng công dân, trong gia đình, từng người trong xã hội, không thể tự do tuỳ tiện, đều phải tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ. 
Hạn chế những ảnh hưởng xấu và điều chỉnh văn hoá phương Đông nói riêng và văn hoá Nhân loại nói chung:
 -Đó là óc đại vị, tôn ti trật tự, đẳng cấp, cục bộ có nguồn gốc do giai cấp phong kiến (tầng lớp vua quan, nho sỹ) là giai cấp trên, được quyền chiếm đoạt, sử dụng của cải xã hội (đứng trên nhân dân, coi khinh lao động). Địa vị luôn gắn với đặc quyền đặc lợi, làm quan có sức hấp dẫn đặc biệt. Tư tưởng địa vị thâm căn cố đế ( do đạo tam cương) tìm cách để có địa vị, địa vị chức quyền càng cao, bổng lộc càng nhiều. Để vinh thân phì gia. Muốn có quyền lợc, phải kết bè phái, cục bộ ê kíp, cục bộ địa phương, cục bộ dòng họ. Cục bộ còn do tính chất bảo thủ làng xa. Điều này chúng ta cần tránh trong xây dựng thiết chế tự trị sau này của xã hội đại đồng. Muốn bảo vệ quyền lợi, thì phải cục bộ. Giá trị con người được xét theo địa vị và danh vọng, mà coi nhẹ đạo đức. Vì tư tưởng quyền danh mà háo quyền hành, háo danh. Tâm lý háo danh còn ảnh hưởng tới cả lớp trẻ khi học, chọn nghề và cả xã hội. Đạo đức phong kiến trọng người quân tử ( xét kỹ là người có học), cho nên quân tử phải đem sự học ấy để hành đạo ( giáo hoá, chăn dân, huệ dân). Nên đôi khi, biến dị đi, quan tham cũng là “cha mẹ dân’. Xuất phát từ tư tưởng đặc quyền đặc lợi, nên để bảo vệ địa vị ấy, vua phải dựa vào dòng tộc, cho mình là “thiên tử ” chăn dân. “Thần thiêng phải có bệ hạ”, quan thì phải dựa vào vua, nịnh nọt vua, dựa vào dòng họ, cục bộ. “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Vô số vua quan vì quyền lợi cá nhân, mà tranh ngôi vị, tranh đất, tranh thiên hạ, đưa xã hội bao năm vào chinh chiến nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn. Không biết họ thay trời hành đạo cái gì?
Đã có tư tưởng như thế, nên phải có những thủ đoạn như kéo bè kéo cánh, tiêu diệt lẫn nhau, tranh dành chức quyền, làm hại người tài, người lương thiện. Đặc biệt là tính cách đố kỵ ghanh ghen xấu xa, nguồn gốc là để tranh dành, gây vô vàn tội ác.
Thời loạn thì trọng nhân tài, đến khi thời thịnh, thì triệt hạ hiền tài. Trong lịch sử có vô khối chuyện đau lòng về chia rẽ đất nước, triệt hạ hiền tài, bảo thủ phản động, phản dân hại nước vì quyền lợi cục bộ.
                                                          Kết luận
Muốn thực hiện đại đồng, hợp nhất tôn giáo, nhân loại, phải: Có một Chính Pháp lớn đủ bao trùm mọi pháp cũ, cao hơn mọi triết-thuyết xã hội hiện có, giải thích khoa học mọi vấn đề của tự nhiên-xã hội-con người-khoa học hiện đại, hợp lý hóa được lý tưởng xã hội, khoa học với Đạo pháp-Chính pháp và huyền thuật-tức là Huyền pháp; hiện đại, nhưng không cũ trong hàng vạn năm; không lặp lại cách thức tu tập và nghi lễ đã cũ… đáp ứng được tiêu chí và phản ánh được sự phát triển của mọi thời đại tương lai; đồng thời, thực hiện cuộc cách mạng tâm linh sâu rộng, cùng lý tưởng xã hội, cả lý tính, cảm tính; và phải chứng minh được sự hiện hữu và khả năng khả thi của Pháp. Phải có một pháp tu tích cực, đắc hiệu, nhưng không xa rời cuộc sống bình thường của con người. Nghi lễ giản dị, Đạo-Đời hợp nhất, dành cho hàng vạn năm.
1-Nhân loại tương lai cần một đạo chung mới, hợp nhất là Không tôn giáo-hay gọi là ĐẠO TRỜI, đủ cho cả nhân loại hòa bình an lạc. Không thờ, hay thờ Thượng đế không quan trọng bằng thực hiện lý tưởng theo con đường của Thượng đế chỉ dạy, định hướng-là qui luật tất yếu của xã hội loài người.
2-Nhân loại cần một triết thuyết khoa học-tâm linh chính xác về qui luật tiến hóa của Vũ trụ-nhân loại. Hiện triết học phương tây hiện đại bế tắc và khủng hoảng, CNTB sẽ tất yếu bị diệt vong. Triết học và khoa học hiện đại bó tay không đủ khả năng giải thích các hiện tượng bí hiểm và sự thật tâm linh.
3-Có người sẽ nói chúng ta là gì mà có quyền “phán xét” các tôn giáo?
Ta nói các lý do sau:
-Thứ nhất:-Đã là đứng ngoài họ, và là con người có nhận thức, thì phải biết hay dở tốt xấu, khi nhận thức cái khác, ví như nhận thức người khác và người khác nhận thức về mình vậy. Do đó, ta có quyền nhận thức cái hay, cái dở của các tôn giáo. Cái mới sinh ra, thì luôn phủ định cái cũ; xưa các tôn giáo lúc mới ra đời, hay các học thuyết cũng thế.
-Thứ hai: Các đạo đã mạt pháp-do chính họ, có tính phổ biến, không cưỡng lại được. Vì chúng ta được lệnh xây dựng Chính pháp mới, có quyền lực tâm linh của Thiên đình ban cho, có sắc lệnh, có khả năng thông linh, ngồi chính vị ghế bóng-nên có quyền so sánh, tự tin nghiên cứu và nhận xét, trên cơ sở đánh giá khách quan, khoa học, theo nhận thức của chúng ta, chứ chúng ta cũng không vơ vào, không chửi rủa bới móc, hay miệt thị tôn giáo, mà trân trọng, thận trọng đánh giá, không chỉ chúng ta, mà theo như đánh giá chung và ngay trong đánh giá của chính các tôn giáo đó. Thậm chí chúng ta tiếp thu nghiêm túc, khoa học các giá trị tinh hoa của họ. Tại sao? Vì đạo đức chính thống của mọi tôn giáo đều cao đẹp, các bậc giáo chủ xưa đều là những linh căn lớn do quyền phép và tiên tri của Cha giáng thế lập đạo. Cái gì cũ, không hợp nữa, thì nói là cũ.
-Thứ ba: Hiện nay, luật Thiên đình lập Thánh đức tại thế, nhưng tất cả các pháp môn cũ đã và sẽ không bao giờ đáp ứng được tương lai ấy, không thể tiến hành một cuộc cách mạng về khoa học tâm linh và khoa học về xã hội được! Nếu ai tiến hành được, thì chúng ta cầu cho họ thành công! Họ sẽ bất lực trước hiện trạng đau khổ của Cha và loài người chúng ta hiện nay.
-Thứ tư: Bản tôn Ta không phải là kẻ cầu bơ cầu bất về tâm linh. Cha khai pháp cho Ta, dạy từng việc, từng phép; và đặc biệt cho Ta ngồi ghế bóng của Cha. Xưa ít người nhìn thấy vong hồn, nay thời mới, Cha cho nhiều linh căn giáng thế nhìn thấy Cha, và đã có nhiều người ngoại cảm cao cấp, biết rất rõ, hoặc nhìn thấy Cha độ cho Ta, Cha cho họ cũng như Ta nhìn thấy Cha. Khỏi phải cãi xem có Thượng đế có thật hay không! Vậy Ta có quyền nhận xét mọi sự theo sắc lệnh và quyền luật Cha ban cho Ta!
Thực tế, đến nay, các bóng linh đều đã tuân luật chuẩn bị Chuyển thế.
Kẻ nào đã xuống đầu thai, tại thế, chống luật, chống phép, sau sẽ bị xử trị.
Chúng ta chờ cuộc Chuyển thế, không được manh động. Ai tranh dành cũng không được, mọi sự do Cha và chư thiên sắp xếp cho phù hợp. Lý thuyết này góp phần, dâng lên Thánh Đức.
Sau Chuyển thế, các linh căn chúng ta còn sống ở Hạ giới tuân theo Cha giáng linh dạy mọi việc để thực hiện công việc chung. Sẽ còn nhiều các linh căn nổi lên.

Lời Thượng Đế
Thượng Đế là Ta, Ta là Thượng Đế
Sinh ra muôn loài, Ta là chúa tể
Ta là cỏ cây, hoa lá, nhân sinh
Ta là đất đai, hạnh phúc, hoà bình
Là Chân lý, cội nguồn cuộc sống
Là văn minh, là màu xanh, đích đợi
Ta là phúc phần giáng khắp nơi nơi

Ta ở đâu giáng phúc ở đó
Kẻ nào rẻ rúng Ta sẽ mất Ta

Kẻ bỏ Ta sẽ quay trở lại
Kẻ Ta bỏ sẽ làm lại từ đầu
Kẻ hại Ta sẽ tự tiêu diệt
Kẻ phản Ta là tự phản mình
Kẻ chống lại Ta sẽ bị người chống
Kẻ nhạo báng Ta là tự huỷ thân hình

Ta là đấng Cao Minh
Thiện-Mỹ-Chân vĩ đại
Đạo Hằng Ta phổ ba ngàn Thế giới
Mười phương Trời, Ta ngự ở Trung Phương
Ấy là Bắc Đẩu tinh-Toà Bạch Ngọc phi thường

Ta là Thượng Đế
Thượng Đế là Ta
Ta là chúng sinh
Chúng sinh là tất cả
Chí Tôn là cây, Thiên Tôn là lá
Ta là ông Trời
Trời cao khôn tả.
Thần Thánh Phật Ta sinh
Ta là Thiện sinh, Thiện Đạo.

Ai  nói về Ta, Ta sẽ ở bên
Ai nghĩ về Ta, Ta sẽ ở trong lòng
Thờ Ta là Đạo
Đạo Thiện, Đạo Đồng
Đạo Trời muôn thủa thuỷ chung
Ấy dòng nhựa sống máu hồng muôn năm….

                                                THIỆN VÀ ÁC

Thiện và ác là hai phạm trù đối lập nhau. Là hai phạm trù thuộc tính của nhân cách con người; là thước đo để xem xét đánh giá đạo đức. Nó cũng gắn liền với các nội dung của tôn giáo nói chung, vì tôn giáo chân chính nào cũng lấy tính thiện, tu tập đạo đức làm đầu.
Với Thiên Đạo, thiện và ác được phân tích, trở thành các chỉnh thể quan trọng để không những đánh giá nhân cách, mà còn để nghiên cứu, phán xét, có cách biện pháp cải tạo nhân cách; xét các mối quan hệ của thiện và các để giáo hoá chúng sinh, thậm chí cả linh hồn để tiến hoá theo con đường của Thượng đế. Vì tôn giáo chân chính nào cũng lấy tính thiện, tu tập đạo đức làm đầu.
1-THIỆN:  Thiện gồm có thiện tính và lương thiện:
-Thiện tính là thuộc tính của đạo đức, trong nhân cách; đó là khả năng không làm ác và khả năng hướng đến việc thực hành cái thiện, điều thiện nói chung.
Cái thiện ấy là không muốn, hoặc không bao giờ muốn làm hại cái thiện, cái tốt, cái chân chính trên đời.
Thiện tính khác tính thiện. Tính thiện là một nét của đạo đức, là khả năng thực hiện và sự thực hiện, cùng kết quả của việc thiện, đạo thiện. Còn thiện tính là cái có sẵn, được tồn tại trên cơr vững chắc của lương tâm lành mạnh. Thiện tính còn là khả năng phấn đấu để cải tạo bản thân, xã hội, con người; đất tranh chống cái ác, cái xấu xa, độc ác; giáo hoá cái ác, cái xấu, để cái ác cái xấu trở thành tốt lên; mà không cực đoan, không tận diệt tàn bạo chúng.
Thiện tính có tính lương tâm, có sự nhân ái sâu sắc. Thiện tính không ngu muội, chạy theo cực đoan, cũng không trung dung, mà dứt khoát nghiêng hẳn về thiện lương đế thực hiện cái thiện. Có thể nghĩ hẹp một chút, tính thiện đó như một thiện căn vậy. Thiện tính là cái có sẵn thuộc lương tâm, được tu tập qua các kiếp, được tu bổ trực tiếp tại hiện kiếp; nhiều hay ít là don bản thân hiện kiếp này phát huy tiếp hay đánh mất nó. Ai cũng có tính thiện, dù ít hoặc nhiều, vì cũng có lương tâm, dù ít hoặc nhiều. Thiện tính thuộc lương tâm, phụ thuộc lương tâm, dù ít.
-Lương thiện: Là phương pháp và lối sống trong sạch. Phương pháp này do tính cách tạo nên, mà tính cách là thứ có thể thay đổi, giáo hoá được; cho nên, lương thiện là quản của thiện tính, của lương tâm. Có người sống không lương thiện hoặc ngược lại. Lương thịên là cách sống của lương tâm chỉ bảo. Khái niệm này theo Ta rất rộng. Không sống ác, thất đức, làm ác, không tham lam của người khác, không tham ô, hủ bại; không tham gia vào các việc trái với đạo đức.
Lương thiện chưa chắc đã  tham gia đấu tranh chống cái ác, có khi dĩ hoà vi quí, đạo đức an lành là xong; hoặc không bao giờ làm ác với ai, hoặc cả việc không dám chống cái ác vì sợ nó. Trong khi thịên tính dám chống cái ác thì nó mới là tính thiện. Nhưng lương thiện là cái căn có được của một nhân cách đạo đức trong sạch. 
Cả thiện tính và lương thiện tạo thành thiện ( cái thiện). Với Ta, đó là cặp nội dung quan trọng, có mối quan hệ chặt chẽ, bổ cung cho nhau. Cũng có thể có cái naỳ mà không có cái kia. Ví dụ: Một tên cướp, đi cướp của người giàu cho dân nghèo, là có thiện tính, nhưng không lương thiện. Một người sống sạch sẽ, tròn vo, không ác, không thất đức, là lương thiện, nhưng cũng chẳng bao giờ tìm cách giúp người.
Thấy cái ác nó làm hại cái thiện, mà không dám bảo vệ thiện, vô tình, hoặc dửng dưng, liệu còn thiện? Ranh giới ấy với cái ác là rất mỏng; chỉ cần né tránh cái ác, không bảo vệ thiện, để mặc cái thiện bị vùi dập, thì anh ta sẽ thành bất nhân. Ví dụ: Ra đường, gặp một người thiện bị kẻ ác hành hung, gặp cảnh người thiện bị hành hạ khốn khổ, mà anh ta cứ giương mắt xem, không can, không giúp, thì không là thiện nữa! Gặp kẻ hoàn nạn mà không ra tay cứu giúp, mà dửng dưng thì anh ta ác; mặc dù trước đó anh ta lương thiện. Vì quá cực lương thiện thì hoá thành cái thiện ích kỷ, ngu thiện.
Đạo Ta không cần, không trọng thứ ngu thiện ấy!
Thiên Đạo Ta là biết sống kết hợp cả hai phần: Thiện tính ở trong như ngọn lửa soi sáng tâm can, hun đúc lên sự nhiệt tình hướng đến việc thiện, việc lành, việc nhân đức; sống thanh cao về lý tưởng, trong sáng hướng thiện, cải tạo mọi thứ cho tốt lên theo qui luật tiến hoá; và sống lương thiện thực sự.
Đạt được hai cái đó, chúng ta mới thực hiện được lý tưởng cao đẹp của Cha.

2-Ác:
-Là thuộc tính của nhân cách, gồm ác tính và bất thiện.
Ác tính là sự hướng đến cái ác trong nhân cách, thích làn việc ác, coi cái ác hoặc là sự phấn đấu, hoặc là sự tạo nghiệp theo tính ác. Tính ác không có sẵn trong lương tâm, nhưng luôn có sẵn trong nhân cách, dù nhân cách ấy được tiến hoá tốt đến bậc nào. Có nghĩa: Với một nhân cách trần giới, tính ác luôn có, dù ít, dù nhiều. Nhưng quan trọng nó có bộc phát, tồn tại như thế nào. Người thiện lương dù có lúc nghĩ đến việc ác, nhưng không thực hiện vì thiện tính chiến thắng; kẻ ác thì ngược lại. Ác tính khác với làm việc ác. Ác tính có khi chỉ ở việc ác tâm, không thiện. Ác tâm là thích việc ác trong đầu, có thể chưa làm.
Bất thiện là đã thực hiện ý nghĩ, làm việc, đã sống không thiện; là phương pháp sống không thiện. Nếu đã thực hiện hành vi bất thiện thì là ác. Bất thiện chưa chắc đã là ác hẳn, có khi một người tốt, làm nhiều việc tốt, nhưng vẫn làm vài việc xấu-bất thiện, nhưng xét toàn bộ nhân cách, thì phần thiện vẫn nhiều hơn, thì anh ta là kẻ thiện, tuy không hoàn toàn; và ngược lại, kẻ ác có khi vẫn làm được việc tốt, nhưng phần ác che lấp nhiều hơn phần thiện, thì anh ta là kẻ ác. Có khi kẻ ác làm thiện, kẻ thiện làm ác, thiện ác lẫn lộn mà không phân biệt được! Trong khi làm ác, có khi tạo ra mầm-duyên thiện và trong khi làm thiện, có khi tạo ra mầm-duyên ác.
Chỉ có Cha, Tam Toà mới đủ công bình phán xét. Nhưng người trần muốn phân biệt thiện ác, cứ lấy cái công quả, hiệu quả cuối cùng theo đường tiến hoá mà đo, thì cũng có thể đo đếm được thiện ác; vì nội dung tiến hoá thuộc đạo Trời ( Ba qui luật Vũ trụ).
Ví dụ: Một kẻ bóc lột vài người, rồi đem cứu giúp hiệu quả cho nhiều người, thì anh ta được cân thiện nhiều hơn! Giết giặc cứu nước là thiện. Ta diệt tà ma ác quỉ, cứu nhân loại là thiện. Xử kẻ ác là thiện.
3-Sự chuyển hoá, quan hệ thiện ác.
Thiện và ác là hai mặt đối lập, có quan hệ biện chứng, là hai thuộc tính cùng tồn tại trong Vũ trụ, trong bản thân mỗi con người. Cho nên chúng đan xen nhau, đấu tranh, bài trừ, chuyển hoá lẫn nhau. Không có mặt này, thì mặt kia sẽ gọi là cái khác. Vì sao? Vì nếu tất cả toàn thiện thì không gọi là thiện nữa, vì có cái gì để làm ranh giới, hoặc đối lập để phân biệt nó? Và ác cũng thế. Nếu cả thế giới thiện hết, đó là đại thiện, lúc đó loài người thành thần thánh tiên phật hết, và chấm dứt luân hồi, loài người về Thượng giới hết…
Thấy thiện nhiều chớ mừng, thấy ác nhiều chớ sợ. Vì sao?
Cực thiện sẽ thành ác, cực ác thành thiện. Trong thiện có ác, trong ác có thiện. Cực thiện thì không tiến hoá nữa, hoặc tất cả chuyển hoá, hoá mầm ác diệt sinh ra. Cực ác thì ác ác chống nhau, sinh ra mầm thiện. Không có ai ác hoặc thiện hẳn. Phật cũng đã và đang dùng luật để trị kẻ ác. Trong thiện có chứa ác nhỏ để cải ác, trong ác có thiện để thiện ác đấu tranh, để cải tạo ác hoặc diệt thiện. Chúng đan xen nhau, chế ngự nhau. Và thế giới này cũng vậy. Chúng thúc đẩy nhau trong quá trình tiến hoá, theo hướng loại trừ dần các mặt tối của Vũ trụ, của con người theo Luật Trời. Không đấu tranh không phát triển. Vì cái thiện luôn luôn cuối cùng sẽ chiến thắng cái ác, nên thế giới mới tiến lên được; cũng bởi lý do duy nhất: Đó là ý chí của Cha-cũng là con đường của Chân Lý!
Trong thế giới nói chung, trong con người, xã hội-luôn luôn có cuộc đấu tranh giữa thiện và ác. Trong cuộc đấu tranh này trên giới thiên linh, là cuộc đấu tranh trong linh hồn-tiến theo Trời, hay theo nước quỉ; là giữa một bên là thần thánh tiên phật, các vong tiến hoá, siêu thoát, với một bên là quỉ ma, các linh tinh ác sát. Cha là của chung: Trong Cha có cả ác và thiện! Tất nhiên có nghĩa là cả quỉ ma, thần thánh tiên phật đều là của Cha, Cha sinh ra tất thảy1 Cha chủ sinh, chủ dưỡng, chủ diệt, chủ định đoạt muôn sự, muôn loài và chủ thiện; cho nên cái ác dần sẽ hết, thế giới đi lên, con người tiến hoá.
Như đã nói trong Thiên Kinh: Chúng ta hoàn thiện, thì thế giới hoàn thiện-Cha hoàn thiện. Ví như một đại gia đình: Có con tốt, con xấu. Con xấu thì Cha đau lòng, con tốt thì Cha yêu; nhưng đều thương cả hai, chứ sao ghét bỏ được, còn phải nuôi chứ!
Trong Hạ giới: Đó là cuộc đấu tranh giữa cái ác với cái thiện trong xã hội, biểu hiện ở những sự tiến bộ, công bằng bác ái, thiện đạo, có những cái bất công, phản tiến bộ, xấu xa…Kẻ ác có khi làm thiện, kẻ thiện có khi làm ác. Chỉ bản chất thực sự của họ mới rõ được. Trong con người: Đó là cuộc đấu tranh trong ý nghĩ, trong hành động, để cải tạo bản thân, để sống đúng là mình, đúng với mình. Kể cả kẻ ác và người thiện! Nhưng, cái thiện là cái chủ đạo. Hiếm có kẻ vỗ ngực tự xưng nó là kẻ ác! Đến Quỷ Vương kia, có lúc cũng phải chấn hưng cái thiện, phù thiện theo ý chí của Cha!
Cho nên: Không hoảng sợ, không buồn đau, không cực đoan khi cái ác trong xã hội, trong ta còn tồn tại, vì trong giai đoạn chưa lên đại đồng đại thiện, thì cái ác vẫn còn. Vấn đề là ở chỗ: Nhận diện rõ cái ác, tính chất của nó thế nào, diễn biến ra sao, bản chất của nó, biểu hiện của nó để cải tạo (trong thế giới, trong ta).
 Không sợ nó, vì sẽ có cách cải hoán nó; không bao giờ sợ thua nó, có thua chỉ tạm thời! Người đời không diệt nó, thì Trời diệt nó, theo qui luật tất yếu tiến hoá-thiện luôn thắng ác, nhân qủa.
Nhận diện được thiện ác, phải có phương pháp tư duy khoa học.

                                                TỨ ĐẠI ĐỊNH ĐỨC
Đêm rạng sáng ngày 28/2/2008, Thái Thượng Lão Quân giáng dạy
Tứ đại định đức là bốn đức tu tập, là điều kiện định đức, chuyển đức, rèn đức khi tu đạo. Đó là:
1-Định Tâm:       
Đây là yêu cầu đầu tiên. Không định tâm thì không làm được việc gì. Có tâm tu đạo, hướng đạo, hướng chân thiện mỹ, thì mới có đạo, có đức được.
                           Không tâm không sáng không lành
                           Có tâm tâm sáng tâm lành khai tâm
                           Bước qua cửa đạo cao thâm
                           Sáng lòng thì mới sáng danh cõi đời
                           Dạy cho mà biết ở đời
                           Chữ Tâm nhất vạn qui lời Thầy đây
Tâm có sáng, lòng mới trong. Hướng tâm mình về cõi đời sáng, về cõi thiên linh vĩ đại, sẽ thấy lòng mình sáng láng một niềm tin, một tín điều cao rộng, ấy là tu tâm để thành đắc quả. Muốn có tâm thì phải giáo tâm mình, tự mình giáo hoá, tự giáo dục theo đường chính giáo. Khi đã thấu nhập Chân Lý vĩ đại, được các đấng uyên thâm giáo hoá, thì phải biết đường chính mà đi, lúc ấy mà còn lòng tà vạy thì tâm bất thiện, tâm diệt và chỉ có sám hối thì mới mong sáng láng trở lại.
Định tâm là định tư tưởng, niềm tin, ý chí về cõi Trời. Biết mình, tự giáo hoá lấy mình để có đức tín, tâm thành với Cha, Mẹ, Thầy và chính mình.
Khi định tâm, ta bước vào cửa đạo, cửa đạo mở ra cho ta, bước vào cõi Thiên linh vĩ đại, là quê hương, nguồn cội, nguồn sống của chúng ta.          
Định tâm còn là định ra sự xác tín của niềm tin vĩ đại. Không có niềm tin vào Cha Mẹ Thầy thì không tu được đạo. Sự xác tín không ai dạy cho mình, mà mình phải tìm thấy trong cuộc sống này; mất nó, khó tìm lại, nhưng tìm nó rồi thì chớ để mất. Những kẻ ngu muội sẽ có ánh sáng mà đi, có Cha soi đường mà tiến, tu, tiến bộ, mọi vật tiến hoá.
2-Định phận:
Định phận là xác lập, định tính, định số cho mình, tự mình định liệu lấy con đường số phận gắn với đường tu đạo của mình. Tức là: Phải biết mình là ai, tính cách của mình, lấy số để biết số phận, biết phận để cải tạo cuộ đời mình; muốn cải tạo thì phải phấn đấu theo Đạo mà tự giác, tự tiến bộ. Trời định số, đạo là của Trời, vậy theo đạo là theo Trời. Trời sinh Trời diệt; theo đạo Trời, tức là tuân mệnh Trời, thì Trời dưỡng, Trời nuôi, Trời cứu. Đặc tính “đức năng thắng số” là ở đây, vì không có gì là không cải tạo, cải hoán được. Tất cả là do mình, mình là “Trời con”, Cha cho tất cả những nguồn năng để cải hoán cuộc đời; chỉ có theo Cha mới được điều đó. Phải hoàn toàn tự tin ở mình khi tu đạo.
                                    Biết mình, biết người, biết Trời, biết số
                                    Biết tuân Đại phụ, biết lẽ từ bi
                                    Biết Đạo, biết đi, biết vì lẽ lớn
                                    Ân ban vô thượng, Thiên Thượng, Thiên Nhân
                                    Phát tại Chân Nhân-nơi Thầy trú ngụ!
                                    Dạy cho biết đủ mọi thứ nguồn cơn
                                    Định phận là hơn, Đạo lành thắng số
3-Định thiện:
Định Thiện là biết hướng thiện, biết ngộ ra Chân Lý hướng thiện, lập đường thiện, theo đường thiện của chính mình. Định tâm, định phận mà không định thiện thì không theo Đạo được. Định thiện là điều kiện để cho định phận được mãn chí, mãn đức. Thiện là sự vô lượng của lương tâm ở linh quang mà Cha đã ban cho chúng ta ở mọi kiếp, mọi đời, mọi người. Thiện thắng ác; sự tiến bộ phát triển ắt sẽ thắng lạc hậu, ngu dốt. Vì con đường tiến hoá không cùng là không thể đảo ngược. Định thiện không phải là cố gắng tạo cho mình một hành vi thiện, vỏ bọc thiện, mà trong tâm can mình, luôn hướng về cái thiện, có thiện tính mọi lúc mọi nơi; muốn có tâm từ bi hỉ xả chưa đủ mà còn là nghiệp diệt ác, bảo về cái lương thiện, cái tốt ở đời. Từ bi với kẻ thù, với cái ác để giáo hoá nó, tiêu diệt nó, chứ không nuôi dưỡng nó, hoặc né tránh, để mặc nó tung hoành. Ấy là phép cao thâm của Trời vậy. Hướng thiện thì sẽ có thiện tính, có thiện tính sẽ có nghiệp tính, ấy là nghiệp thiện. Góp các nghiệp thiện lại thành đường thiện, đi suốt đường thiện thì đắc quả. Khó mà dễ, dễ mà khó.
Nghiệp tính không giáo điều, không máy móc, không bắt ai phải nhất thiết phải làm cái nọ, phải làm cái kia, như thế kẻ dốt-giống như sự nhiệt tình có khi thành phá hoại, vì có khi anh làm ác lại cứ tưởng là thiện! Vậy thì phép tốt nhất là làm theo lương tâm mình mách bảo, làm cái gì thấy cần phải làm để lợi nhất cho chúng sinh, cho đường Chân Lý, cho Đạo, cho chính mình một cách chắc chắn, chân chính nhất thì làm.
Định thiện không cần xác tín như định phận, định tâm. Tâm cần định phanạ theo nghiệp thiện ác, còn đi như thế nào do lương tâm mình chỉ bảo. Định tâm nhưng lại không quyết theo đường thiện thì sao cải tạo được đời, người? Do vậy, dứt khoát định thiện là yếu tố cực kỳ quan trọng, là điều kiện cần có và đủ của tu đạo.
4-Định Nhân:
Định nhân là định được nhân đạo, nhân tâm, nhân nghĩa, nhân ái cho mình, cho người. Có định được thiện rồi, muốn thành thiện, đắc quả thì phải định nhân, hay nói một cách khác: Định nhân để thực hiện định thiện.
-Nhân đạo: Thực hiện các điều nghĩa với chính ta, với mọi người xung quanh, với cả kẻ thù, kẻ ác, tà ma ác quỉ. Điều nghĩa là gì? Là làm cho mọi sự ấy, mọi đối tượng ấy tốt hơn, lành hơn, tiến bộn hơn, an lành, an vui, thiện hơn! Ấy là việc nghĩa, điều nghĩa. Sống có nghĩa với nhau là ở chỗ đó. Thực hiện nhân đạo mà làm cho nó xấu đi, thì không phải là nhân đạo nữa. Cho nên chú ý việc này. Nhân là nhân nghĩa, đạo là đạo đức, đường đạo chính. Nhân đạo là giúp cho đối tượng theo đường đạo chính-ấy là mục đích cốt lõi, cuối cùng của vấn đề. Tại sao phải nhân đạo? Nhân đạo là con đường quan trọng nhất để cải tạo cái xấu, cái ác. Vì:
                                 Từ bi hỉ xả ở đời
                                  Khơi nguồn thiện tính cho người con ơi
                                  Thế nhân muôn mặt sự đời
                                  Ác giả ác báo, thiện rồi thiện căn
                                  Lấy lành báo ác thiện sinh
                                  Lấy ác báo ác, càng đầy ác thôi
                                  Muốn cho hết ác ở đời
                                  Gia nhân trì đức cho người ác ngay
                                  Để cho phục thiện tốt thay
                                  Dùng nhân nghĩa phục, dùng ngày dùng đêm
                                  Khó gì một cuộc đỏ đen
                                  Hoá thành đỏ cả một miền trường sinh
                                   Khen cho các nghiệp các lành
                                   Lấy ân báo oán thiện sinh mọi nhà
  -Nhân tâm:                
                                   Nhân ở tại tâm, nhất tâm sinh
                                   Khai quang cho tâm sáng tâm lành
                                  Tâm mình sáng thì tâm người sáng
                                   Qui lại tâm mình đẹp, tâm người sinh
Có nghĩa: Nhân tâm là tâm của ta. Tâm ta có sáng thì mới mong có tâm người sáng với ta, với đời. Nhân tâm là nhân với mình trước, nhân với người sau. Vạn đức nhất nhất sinh tại tâm. Tâm định đạo, ắt có nhân tâm. Không định tâm, ắt không nhân đắc.
 -Nhân ái, nhân nghĩa: Là thứ cần của con người để thực hiện nhân. Chữ nhân này là chữ định nhân, có nhân, vì nhân là người. Nhân nghĩa là cứ biết việc nghĩa mà làm, đã giải thích. Nhân ái là biết đem lòng yêu thương mọi vật do Cha sinh thành. Nhớ lấy!
Duy nhất: Lòng yêu thương sẽ hoá giải tất cả. Khi phát nguyện lòng yêu thương thì sẽ có yêu thương, được yêu thương. Yêu thương sẽ cứu rỗi tất cả. Cha vô cùng yêu thương tất cả muôn loài, trong đó có chúng ta. Cha dành cho chúng ta lòng yêu và tình yêu vĩnh cửu, vì ta thuộc Cha, Cha là chúng ta, chúng ta là Cha. Yêu Cha, yêu người là yêu chính mình và ngược lại, có yêu chính mình thì mới yêu được mọi người. Yêu là yêu chân chính, theo đạo chính, chứ kẻ ác nó yêu cái xấu của nó thì không thể có chuyện nó yêu mọi người được. Cái gì làm lợi cho chúng sinh nhiều nhất, theo tiến hoá thì làm! Sự cứu chuộc của Cha cho các linh hồn, các kẻ ác là do sự thương yêu. Cha tha thứ, mở lòng hiếu sinh đến mọi vật. Nay thế gian hỗn loạn, đạo đức suy vi, đỏ đen lẫn lộn. Kẻ ác hoành hành, người tốt suy vong, ấy là do mất dần lòng thương yêu nhau. Cũng vì mở lòng giáo hoá vô biên, yêu thương vô biên cho chúng sinh đau khổ, ngu lầm, không muốn cho ngày tận thế tuyệt diệt chúng sinh, mà Cha cho giáo hoá lại khắp hoàn cầu, chỉ ra bản chất của Chân Lý, các đường thiên linh, cả khoa học minh triết cao thâm để các chúng sinh thấu được tình thương, mà tự mình chuyển hoá đạo đức, hướng thiện, cứu mình trước khi Trời cứu, Trời diệt. Ấy là đạo Trời cao diệu, yeê thương vô biên!
Vậy, người thiện cũng đối đãi với cái ác, kẻ ác như vậy, chỉ trừ khi giáo hoá trong yêu thương không được, mới gia ân phạt ác cứu thiện, cứu nhân-ấy là thiện.
Hôm nay, Thầy giáng phép dạy đệ tử Trung Phương Thiên Tôn như vậy, nhớ lấy mà ghi, mà chép, mà giáo hoá mình, giáo hoá giáo hữu về sau. Ta nói không sai. Đệ nhất Sư phụ là Ta, tối qua Ta trách nhà ngươi, chẳng qua là nhà ngươi chưa tin Ta, quên Ta, mà quên Ta sao thành đạo đức! “Đạo Đức kinh” là Ta viết mà! Ta giao lại Tứ đại Định Đức này cho Bảo Toàn Phổ Giáo Khai Đạo Đại Thiên Sứ. Thiên Đạo là đạo Trời, rõ nhé!
 * Trung Phương Bảo Toàn Phổ Giáo Khai Đạo Đại Thiên Sứ phụng lệnh ý Thầy giáng phép, tốc ghi 4h sáng ngày 28/2/2008.

                                                     CHIẾN TRANH
                                                        
Chiến tranh là gì?
Chiến tranh blà bi kịch lớn nhất của xã hội loài người, trong đó có sự huy động và diễn ra các hành động bạo lực để thôn tính, tiêu diệt lẫn nhau, của một bộ phận người trên thế giới ( có thể dân tộc, cộng đồng) nhưng mang tính xã hội cao.
Nguyên nhân: Nguyên nhân lớn nhất là do tham lam và tham vọng quyền lực, kinh tế, thói kiêu hợm ích kỷ của con người. Nguyên nhân này chi phối tất cả các nguyên nhân cụ thể khác như: Đấu tranh giai cấp (do nguyên nhân kinh tế, chính trị); muốn bành trướng để chiếm đoạt, mưu lợi ( quyền và lợi ích kinh tế); nhưng đôi khi có những cuộc chiến tranh gây ra do sự ích kỷ, vô minh của con người như:
Sự trả thù hận thù, trả đãu, khẳng định cái uy phong, cái vị thế của kẻ có quyền uy. (Ví dụ: một ông vua to muốn ông vua bé phải thần phục, chưa chắc là do Nguyên nhân chiếm lợi kinh tế). Đôi khi hai nước “đánh nhau” chỉ vì xúc phạm, đôi co với lý do vớ vẩn, mang tính cá nhân lãnh tụ, rồi lan ra cả xã hội! ( Hãy chửi một ông vua nước khác, hay một ông tổng thống nước khác xem!) Do đó, các loại “bệnh” do thói ngạo ngược do thói ích kỷ của con người nhiều vô kể! Hai người đánh nhau đâu có chỉ vì chuyện cơm áo? Đôi khi, trong lịch sử có các quân vương tương nhau ra trò chỉ vì tranh gái! Đôi khi hai quân vương đánh nhau khi họ là hai anh em ruột!
Khi nguyên nhân xảy ra, chiến tranh bị thúc đẩy đến cùng, do có sự hận thù của con người, giết lẫn nhau thì bao giờ cũng tạo ra sự hận thù cho cả hai bên. Hận thù trở thành động lực quan trọng, ảnh hưởng đến sự vận động, chuyển hoá của chiến tranh; tham vọng càng thúc đẩy sự hận thù và ngược lại. Tham vọng là nguyên nhân chính yếu, khi nó kích thích và chuyển hoá thành hận thù thì sức mạnh của nó càng khủng khiếp. Vào “cuộc chơi” một mất một còn ấy, các ngài lãnh đạo cuộc chiến phải tìm mọi cách thúc đẩy cả hai yếu tố trên lên đỉnh điểm.
Chiến tranh kết thúc khi: Có một bên thắng, một bên thua, hoặc cùng cởi bỏ hanạ thù, hoặc cùng “mở mắt ra, tỉnh ngộ” mà dừng lại. Sự “mở mắt” này là do: Hoặc cùng thấy bất lợi, cùng bị tổn hại nặng-chưa chắc đã hết hận thù! Hoặc cùng hoá giải mâu thuẫn do thức tỉnh ra nguyên nhân, hoặc do kẻ thứ ba tác động.
Hậu quả: Hậu quả khủng khiếp nhất là: Con người giết lẫn nhau, coi nhau không bằng con vật, mất tính người, mất người, đau thương tang tóc, mà chủ yếu dân thường bị hại; đặc biệt hận thù đã đẩy con người vào sự dửng dưng trước cái chết, trước máu xương, trước nỗi đau con người: Cả hai bên, khi người lính giết người xong, đều ca ngợi chiến công, có khi mừng thắng lợi, hát ca, vui hội. Không thiếu gì cảnh các binh sỹ sung sướng nhảy nhót ăn nhậu, ca hát ngay trên đống thịt người bị giết. Cái chết ở trần gian là cái chết của xương máu, hữu hình, của sinh mạng con người, nên đau thương vô cùng; nó khác với cuộc chiến trên trung-thượng giới giữa các linh hồn, kẻ “chết” chỉ là sự cởi bỏ lớp thể vía ô trọc…Cho nên, cái chết chóc ở hạ giới vừa kinh rợn, tanh tưởi, ô ám vô cùng, và đau thương tất yếu.
Tàn hại môi trường, môi sinh: Tất yếu rồi, kẻ tạo và kẻ bị đều “hưởng” chiến tranh; càng tàn khốc, con người càng tàn độc, “khoa học giết người” càng tinh vi, thì hậu quả tàn hại môi trường càng lớn. Hiện nay, có lắm thế lực đang “doạ” nhau dùng chiến tranh hạt nhân, tất yếu cả loài người, trái đất bị tiêu diệt; cả bên tham gia hoặc không tham gia đều chết hết, nếu có sống phải đến hành tinh khác mà ngụ cư!
Chưa bao giờ chiến tranh phi nghĩa lại thúc đẩy xã hội phát triển. Kẻ nào nói chiến tranh thúc đẩy sự phát triển của xã hội, kẻ đó là phản động. Có thể ngay lúc kết thúc, chiến tranh phi nghĩa tạo ra thành quả “giả tạo” cho kẻ gây chiến, chiến thắng, nhưng về lâu dài, quả của cuộc chiến ấy sẽ quật ngược trở lại kẻ đó, theo luật Nhân quả, và kẻ đó phải lãnh hậu quả khủng khiếp.
Chiến tranh chính nghĩa, bao gồm chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc, chống thế lực phi nghĩa, nhằm chống lại cái phản tiến bộ (nói chung) đều là động lực tốt. Nhưng để chiến thắng cái ác, lực lượng chính nghĩa cũng bị thiệt hại, đó cũng là điều đau lòng.
Hầu như đại đa số nguyên nhân gây ra chiến tranh đều do nguyên nhân phi nghĩa, bên phi nghĩa gây ra. Tại sao? Vì những thế lực tiến bộ không bao giờ muốn chiến tranh, chỉ muốn hoà bình, phát triển; có phát triển thì cũng dựa trên sự giải quyết các mâu thuẫn trong hoà giải, hoà bình. Họ đôi khi bị buộc phải thực hiện chiến tranh, khi áp lực và mâu thuẫn do bên phi nghĩa áp đặt làm họ không chịu được nữa.
 Loài người không cần chiến tranh; xã hội, con người không cần chiến tranh vẫn phát triển được. Chiến tranh không phải là cách giải quyết tốt nhất các mâu thuẫn của xã hội loài người. Khi con người có lòng tôn trọng yêu thương nhau, trân trọng các giá trị con người, hiểu được Chân Lý của Thượng đế, các qui luật của Vũ trụ, thì không bao giờ họ thích súng đạn, chém giết. Chỉ có đạo đức, tính thiện mới thúc đẩy xã hội và con người phát triển. Sự thù hận là do vô minh mà ra, vô minh là do không biết, không hiểu về thế giới, con người, các qui luật Vũ trụ…
Cho nên, tuyệt đối chống chiến tranh, tuyệt đối chống sự tiêu diệt con người. Đó là nỗi đau của lịch sử loài người, mà sau này, lịch sử loài người sẽ xem xét một cách công minh tội lỗi của những kẻ đã gây ra chiến tranh phi nghĩa.
Xã hội Đại Đồng của chúng ta sẽ không bao giờ có chiến tranh nữa.
Tham vọng bẩn thỉu nhất của con người là do tham ác mà gây chiến tranh, dù mang cái ô là chiến tranh ý thức hệ hay gì gì đi nữa! Chiến tranh bẩn thỉu nhất là chiến tranh xâm lược, không bao giờ có thể bao lấp được sự bẩn thỉu đó, dù giải thích hoặc nguỵ biện bằng cách nào!
Và từ trước đến nay, có lẽ về sau nữa: Tất cả những kẻ gây chiến đã và sẽ bị chịu hậu quả khủng khiếp do luật nhân quả phản hồi, phản phục. Thường những kẻ gây chiến bất chính, sau đó đều bị Thượng đế và qui luật nhân quả tận diệt, nhẹ thì dòng tộc, bản mệnh cá nhân, nặng thì cả dân tộc quốc gia, đế chế; “tham thì thâm” là như vậy!
Cho dù lúc đầu chúng hùng mạnh đến đâu: Những đế chế Átlantic, La Mã, Nguyên Mông, Naponeon…đến thế kỷ 20 có phát xít Hit-le, phát xít Nhật…Các đế quốc hùng cường bị lụn bại ở Việt Nam. Trong lịch sử thế giới: Chiến tranh Việt Nam trong thế kỷ 20 chứng minh hùng hồn tính thiện tất thắng ác theo đạo Trời, dù cái thiện có yếu và nhỏ hơn cái ác nhiều lần! Chúng ta nên nhớ: Sức mạnh tư tưởng có thể chuyển núi dời sông!
Nay thời mới đến cho nhân loại, chúng ta chống chiến tranh một cách triệt để, bằng mọi cách phải bảo vệ được sự phát triển lành mạnh của xã hội loài người; quyết tâm cùng những người tiến bộ, hiền lương chống các thế lực hắc ám, bảo vệ thế giới. Mọi người cùng nhau gác lại xung đột, cùng chung sống hoà bình, trên cơ sở tôn trọng quyền sống và quyền bình đẳng của con người, của các dân tộc, các quốc gia…không có mâu thuẫn nào mà không giải quyết được bằng các biện pháp hoà bình!
Ai muốn chiến tranh? Những kẻ mưu mô gây chiến, những kẻ buôn vũ khí, sống bằng tiền buôn vũ khí và sống nhờ xương máu nhân loại cần nhớ:
Ta sẽ công khai trước nhân loại xét xử linh hồn những tên tội phạm chiến tranh sau chuyển thế. (Nếu Ta ở Hạ giới, thì Ta xử ở Hạ giới, nếu lên Trung giới, thì xưr trên Trung giới-nhưng công khai cho mọi người biết).
Những tên không bị diệt linh hồn vĩnh viễn, sẽ bị cho đày đạo, ăn rêu, cứt sắt trong các nơi cần nhốt, thời gian bao lâu tuỳ vào sự sám hối.
Kẻ ác tội cho đầu thai làm thú vật và Ta cho công khai sự đầu thai ấy để sau mọi người biết!
Nếu nước nào gây hoạ chiến tranh thế giới tiếp, thì Thượng đế và Ta tận diệt cả nước đó, làm đảo lộn cả địa lý.
Theo quyền phép của Cha cho, Ta phấn đấu luyện phép, có thể hy vọng cứu trái đất, được bao nhiêu hay bấy nhiêu; nhưng không cứu được nhân loại, nếu có hoạ chiến tranh hạt nhân!
Các thế lực tôn giáo phải xa rời các âm mưu quyền lực chiến tranh!
Nền hoà bình vĩ đại của nhân loại sẽ có trong tương lai!
               
BA NGUYÊN LÝ
XÂY DỰNG NỀN ĐẠO ĐỨC TOÀN NHÂN LOẠI ĐI LÊN ĐẠI ĐỒNG

1-Công nhận và phân đấu theo Chân lý cuối cùng của Thượng đế
            (Tức là lý tưởng xây dựng Thiên đường Hạ giới để tiến lên Thiên
2-Đoàn kết, giúp nhau tiến bộ vì mục tiêu cuối cùng.          
3-Thiểu số phục tùng đa số, nước giàu, người giàu tôn trọng và giúp đỡ nước nghèo, người nghèo. Không phân biệt, không kỳ thị dân tộc, tôn giáo, văn hoá, trình độ văn minh.       

MƯỜI NGUYÊN LÝ ĐỂ XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁ NHÂN

1-Không tham mọi thứ quá duyên nghiệp mình được hưởng.
2-Đức năng thắng số. Tích cực tìm cách cải sửa số mệnh theo hướng tiến bộ.
3-Luôn nghĩ tới Chân Lý và ánh sáng của Thượng đế.
4-Giản dị hoá, tâm sáng, công bình trong giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống.
5-Phấn đấu có đóng góp cho xã hội, cộng đồng, loài người.
6-Vun đắp tổ ấm gia đình, dòng tộc, làng xóm.
7-Luôn nghĩ ngày về với Thượng đế, cùng hành trang nhân quả của mình.
8-Luôn nghĩ rằng có kiếp sau với duyên nghiệp của kiếp này.
9-Luôn nghĩ mình bất tử. Linh hồn bất tử. Mỗi chúng ta đều là con của
Thượng đế, là anh em bằng hữu cùng Cha Mẹ sinh ra. Phải yêu thương
con người, trân trọng con người, dù là ai, ở bậc tiến hoá nào.
 

CON ĐƯỜNG TU TẬP VÀ GIÁC NGỘ CHÂN LÝ
Thấu Đạo Pháp, theo Chính Pháp và sau đó tu luyện Huyền Pháp

Nay có nhiều tôn giáo, pháp môn tu luyện khác nhau; để thành chính giác
có hàng ngàn pháp khác nhau. Nhưng nay có nhiều pháp-tôn giáo suy mạt chính pháp, nên ảnh hưởng đến tu luyện giác ngộ; nếu có được, thì cũng chỉ cho riêng bản thân của họ, không cứu độ được nhiều người-không mang tính toàn thể.
Phật tổ có nói: Thời mạt, tu sỹ độ mình đã khó, nói chi đến độ người.
Nhiều pháp môn khác, học thần thông, nhưng không học được đạo Trời.
Nay Pháp của Ta, thấu Đạo Pháp, theo Chính Pháp, mới tu Huyền Pháp có ích, thấu cái lý tưởng mà phấn đấu, vì cái lý tưởng mà tự giác đi theo, tu luyện chứ không trọng thần thông quảng đại cho riêng mình-ích kỷ.
Không tham nhiều đệ tử hô hào ứng đối thời mạt thế, không cần ca tụng pháp chủ, không cần nhiều lời quảng bá. Ta cần học trò tinh Đạo Pháp, thông-theo Chính Pháp và đạt Huyền Pháp-lúc ấy mới cho người ta gọi chính ngôi mình là thầy. Mà gọi hay không gọi không quan trọng, bởi sợ nhất là bị thần thánh hóa, bị thần tượng hóa, thế thì khổ lắm, vì Đạo trong từng người, chưa kính trọng bản thân thì sao kính trọng được ai, trên thì kính Trời-dưới thì kính mình, rồi mới kính được thiên hạ. Kính mình là thế nào? Mình là một tiểu hồn trong đại hồn, là một nhân linh đã qua bao kiếp, kiếp này phải đạt ngộ hơn kiếp trước, phải là người tốt, tuân theo Đạo Trời mà sống, ấy mới là kính mình. Kính cha mẹ trần là kính trời đất. Nhưng nếu cha mẹ trần mà lỗi đạo, không kính Trời-Cha-cũng là cha của họ thì ta kính Trời, rồi luân theo lý Trời mà cảm hóa lại họ. Và ai cũng thế.
Còn học Pháp, cốt lấy thần thông thôi, không theo Chính Pháp-Ta không cho đó là học trò, vì họ có theo Ta đâu, học thần thông thì khí công, nhân điện, Phật giáo, Ấn giáo…cũng dạy thần thông. Học thần thông, mà dùng vào mục đích xấu, thì tai họa khôn lường. Thần thông phải quảng đại. Thời sắp đến, thời mới của loài người, quảng đại là xây đời Đại Đồng, chứ không nói lắm, giảng nhiều, đọc kinh cho rát cổ, cúng bái linh đình, hiểu nhiều biết lắm, lắm khoa học nhưng thô thiển, học cho lắm nhưng ứng dụng vô công…thì cũng phí một đời, chưa nói đến chuyện vinh thân phì gia, không giúp gì được cho ai.
Vả lại pháp của ta dành cho Thánh Đức hàng vạn năm, cần chi vội trong cái thời mạt này. Nếu Phật tổ hay Chúa Jê-su có sống lại thời nay, thì cũng có vô khối kẻ muốn giết như xưa, nhưng theo cách tàn bạo và đểu cáng hơn trăm lần.
Sau này, Chính pháp được phổ, được tôn trọng, muốn kính Ta thì cứ dựng Thiên phù lên, có nghĩa là Ta đã theo Cha mà được các vị kính trọng vậy. Chớ thờ Ta, mà phải thờ Thượng đế. Muôn năm phải thế.
Nên cần nhất của người theo Thiên Đạo là: Yêu thương con người, phải thật sự yêu thương nhau mới là chính nghĩa. Yêu thương nhân loại cần lao đau khổ; không tham tiền tài, nhưng không khinh vật chất, lấy đạo đời hợp nhất, cần cù lao động, làm ăn để xây dựng cuộc sống no ấm, bình an, tu tại gia, đạo tại tâm, lấy thiện tính làm căn bản gốc rễ của pháp, thực hiện cứu khổ ban vui bằng chính pháp, chứ không bằng cái việc bắt tà ma, chữa bệnh đơn thuần; không  theo chủ nghĩa và lối tu khổ hạnh, diệt dục, mà sống hài hòa theo qui luật tự nhiên, tuân theo định luật vũ trụ. Đó là con đường cùng trở về của loài người thời Thánh Đức.
Không mê tín, vì có khoa học tâm linh chân chính dẫn đường; không cực đoan, bảo thủ, vì ánh sáng của Cao Minh Thượng Đế soi sáng; không tranh dành lợi danh, uy tín đạo pháp, vì đạo chính không sợ cô đơn, không yếu sức sống; không xa rời cuộc sống, không phân ranh giới với người khác, không xưng tụng, vì Đạo Trời trong từng con người, ai cũng có Thượng đế ở trong bản thể của mình, ai cầu đạo, thì cầu chính mình, tôn trọng mình và tôn trọng chúng sinh mới là tôn trọng Thượng đế; chứ theo đạo, mà gây chiến tranh, bóc lột giết hại chúng sinh, tất là hắc đạo hoặc mượn danh Thượng đế làm càn. Ai cũng là con Cha con Mẹ, không có Thượng đế của riêng ai hết. Tất cả mọi tranh đấu, phải trên cơ sở nhân đạo, lấy giáo hóa, thuyết phục trước, sau mới dùng bạo lực, nhưng là bạo lực của cái thiện, quá đi một chút, cựu đoan một chút, ngu xuẩn dị mọ một chút, tất thành ác, tai họa khôn lường. Ta có nói sợ nhất là vô minh.
Luyện Huyền Pháp, cần nhất là thái độ chân thành cầu đạo giác ngộ, không ham đạt thần thông ngay. Muốn đạt thần thông ngay, hãy đi học nhân điện, hay cảm xạ…
Khi thấu Đạo Pháp, Chính Pháp, tự nhiên anh đã hòa với tư tưởng của Thượng đế và Vũ trụ, thấu lẽ tất yếu của tự nhiên, thì khi đó tu tập mới hòa cái tự nhiên bản thể của mình và cái tự nhiên bản thể của Vũ trụ-nghĩa là ta hòa với Vũ trụ là Một.
Ta viết sách, 9 bộ cơ bản xong, mới được Cha khai nhãn, sau khi khai nhãn, mới tu luyện khí để chữa bệnh; còn bắt tà ma, trước khi khai nhãn đúng 12 ngày, Cha dạy 32 phép huyền thuật, khai nhãn xong, bắt tà ngay….
Như vậy, Ta thấu lý Trời trước, mới thấu Huyền Pháp sau; nay dạy học trò, thì cũng thế. Nhưng học trò có cái may, là có Ta là người trần chỉ dạy trực tiếp, truyền kinh nghiệm, và khác Ta trong học huyền môn, là phải tu tập thiền trước công sau, công rồi mới đến nhãn, còn Ta ngược lại.
Tại sao phải thế, vì bản mệnh Ta được bề trên chuẩn bị, bảo vệ, không sợ tẩu hỏa nhập ma, còn các học trò, nếu không luyện từ cái gốc, thì ắt mang họa.
Khai luân xa-kết hợp thiền trong mọi động tác cuối, mọi bài công pháp đều tích công năng; khai nhãn đồng thời với học huyền pháp tâm linh, thành siêu đẳng, khai nhãn xong còn tu luyện cao cấp khác, như Cao Minh Công, Cửu Long huyền công, huyền thuật-cho đến khi thành nhà ngoại cảm siêu đẳng…Đạt trình độ cứu độ-đạt khả năng giác ngộ cao độ-thấu cái lý thuyết-học thuyết của thầy bằng năng lực thần thông; lại thấy đạo đời hợp nhất; thấu đạo thì ra sức dạy bảo cho người khác thành đạo tại thế, không cần vào chùa, không cần lên núi tu tiên, không xa rời các nguyên lý cuộc sống và cải tạo xã hội, theo lý tưởng hiện thực cao đẹp.
Đạo Pháp, Huyền Pháp là rất chung cho mọi pháp môn khí công hay huyền thuật khác, vì tựu chung, con người chỉ có Nhâm Đốc kinh và 12 đường kinh chính, 7 Luân xa, một huệ nhãn-một Hạ giới và một quê hương để trở về là Thượng giới.
Một người chính vị sinh ra chúng ta là Thượng đế.
Mọi pháp tu từ xưa đến nay cũng chỉ xoay quanh những điều đó, chỉ hơi khác về phương pháp và mục đích mà thành các môn phái, tôn giáo khác nhau mà thôi. Nay Thiên Đạo ra đời, cũng là đỉnh cao, cũng là kế thừa tinh hoa nhân loại, không khác được, nhưng tính tổng hợp và tính hợp lý, theo qui luật được xác lập trên cơ sở Luật Thiên đình qui định; xét về nội dung, bao trùm được các pháp khác. Muốn hợp nhất nhân loại, Ta nhắc lại: Phải có Đạo Pháp chung, Chính Pháp tiến bộ-xây đời tại thế và Huyền Pháp siêu đẳng, có cả khí công-huyền thuật và tâm công.

                   GIÁC NGỘ SIÊU THOÁT VÀ ĐĨNH NGỘ NHẬP THẾ

I-GIÁC NGỘ SIÊU THOÁT
Chúng ta từng nghe nhiều lần khái niệm giác ngộ, siêu thoát khi Ta nói, của các tôn giáo, các kinh sách của loài người hàng vạn năm qua. Vậy siêu thoát, giác ngộ là thế nào?
Theo quan niệm của bản tôn Ta, có nhiều cấp giác ngộ, siêu thoát.
Giác ngộ thấp:
Khái niệm giác ngộ: Là khả năng nhận thức và trình độ học tập, tu luyện đến mức nhận ra Chân Lý Vũ trụ (Chân lý Tuyệt đối) và Chân Lý bản ngã (Chân lý tương đối). Trong đó, Chân lý Tuyệt đối là: Nhận thức và hiểu biết toàn diện về qui luật, định luật Vũ trụ như kinh sách Thiên Đạo, nhận thức sâu sắc về Vua Cha Thượng đế vĩ đại, luật Luân hồi, Nhân quả, Ba qui luật hợp nhất thành Đạo Trời. Thấy mình là một phần tử nhỏ bé, tất yếu và bất tử của Vũ trụ. Là tiểu ngã trong đại ngã, tiểu hồn trong đại hồn, là tiểu Thượng đế trong Thượng đế, trong ta đã có Cha, là một phần của Cha…Giác ngộ rằng: Không ai chết cả, chỉ luân hồi theo luật luân hồi nhân quả, mọi vật chất khác cũng thế.
Muốn tiến hoá về hợp nhất với Cha, tức không còn luân hồi, hay thành chính giác cao, thì phải tu luyện cá nhân và cải tạo xã hội, sống hoà đồng với nhân loại, là Một, Vũ trụ là Một, nhân loại là Một. Từ đó loại bỏ bản ngã ích kỷ, kiến tính riêng xấu, để sống vì mọi người, không ham giải thoát lánh đời, mà cùng tu luyện cứu vớt giúp đỡ người khác, cải tạo xã hội thành tốt đẹp an lạc-đó là cách tốt nhất để cứu vớt, cứu độ nhiều người nhất.
Chân lý bản ngã ( Chân lý tương đối): Thấy mình là một thực thể của Vũ trụ, xã hội, có bản ngã riêng, giao hoà trong bản ngã chung (Thượng đế)-dù có về hợp với Cha-tức Niết bàn-Thiên đường-thì cũng cũng vẫn có cá tính riêng, chứ không tan rã hay thành hư vô. Ta là ta, chứ không phải là ai khác; kể cả khi linh hồn bỏ xác, thì cũng mang một bản ngã riêng, có đẳng cấp khác nhau.
Từ đó có phương pháp tu luyện, phấn đấu cho nghiêm, có tài năng riêng, có mưu cầu hạnh phúc riêng, tình yêu, nghĩa vụ, số phận riêng trong xã hội. Tìm và xây hạnh phúc trong hạnh phúc chung.
Đây là giai đoạn giác ngộ thấp của người Thiên Đạo, nhưng đạt được giác ngộ này, phải có tinh thần tu luyện đạo đức và tự giáo dục ghê gớm; học tập, nghiên cứu kinh sách nhiều và tu luyện Thiên Pháp tốt, làm đủ 9 điều Không phạm mới thấy được những điều Ta nói.
Siêu thoát bậc thấp: Sau khi thấu ngộ, giác ngộ, thì nảy sinh nhận thức và tình cảm không ham muốn gì nhiều, ít ra là cho bản thân mìn; sợ tranh dành bon chen, ăn nhiều thì nhanh già, nhanh chết, luyện khí càng khó, thêm bệnh; tham danh ô lại, đấu đá buôn bán…chỉ thêm mệt mỏi, tất cả chỉ là bèo bọt mây chớp ở đời, vì linh hồn bất tử, phải trả quả, thế thì sao phải sống gấp, tranh dành để sống để mắc nghiệp. Và vấn đề là chúng ta xuống thế đầu thai kiếp này là gì? Mục đích gì? Đó là học hỏi, tầm đạo để tu luyện, để tiến hoá cao, kiếp này đắc đạo là cái tốt, nếu không thì cũng chớ sa vào đường tà ác, sau bị đoạ đày…
Đời như một giọt nước bay trong không gian và thời gian rất ngắn, trong khi chúng ta từng làm người qua bao kiếp số, chỉ sợ không tầm được sư, học được chính đạo, hoặc lỗi Đạo, muộn, để mất cơ hội tu luyện, kiếp sau lại đoạ trần mà học lại…Đặc biệt, khoong tu luyện tốt, khi mãn kiếp, linh hồn cấp thấp bị đoạ đầy đau khổ thế nào!
Hiểu và nhận thức được như thế, là đã giác ngộ, sẽ sợ làm ác, giữ mình mà lánh các việc bất thiện; sau nữa, nếu được tu luyện đắc thần thông thì thành Chính giác cao. Không đắc thần thông tại thế, tất không thành chính giác cao-trừ một số người đã có sẵn nhân duyên và thiện huệ từ trước.
Từ đó thấy vui vẻ yêu đời, yêu quí mọi người, thương người, thương cả cái kiếp số của mình, thương kẻ nghèo khổ, không khinh người nghèo khổ, hư dốt, thậm chí thương cả kẻ thù của mình, vì họ vô minh, họ bị khổ vì hại ta, họ sẽ bị đoạ, giống như kẻ mù quáng, không biết đường đi…
Mình tự hào là bất tử, không sợ chết, không tham sống, tham mọi sự; đặc biệt không cần phải hờn giận, khổ đau lâu, tiếc nuối quá cái gì quá, vì không có cái gì mất hết cả, chỉ là sự chuyển hoá mà thôi; không khát thèm thái quá cái gì cho riêng mình, không dẫm đạp lên người khác để sống
Giác ngộ và siêu thoát bậc cao:
Lẽ ra vấn đề này Ta để cho học trò tự tu luyện rồi chứng ngộ, nhưng Ta nói ra để các vị biết đường mà tu cho tốt và tin tưởng ở con đường giác ngộ Chân lý. Nhưng Ta cấm học trò không khoe khoang với ai về việc đã thấy gì, được gì; phải tự mình tu, rồi cảm nhận, cấm kiêu căng.
Giác ngộ và siêu thoát cao cấp tại thế chỉ bằng cách tu luyện Huyền pháp-khai mở năng linh mới thấu được. Khi khai huệ nhãn, biết xuất thần, xuất hồn-vía lên cao, nhìn thấy mọi sự, thấu sự đời, soi lại lương tâm bản thể, sẽ sinh cảm giác như sau:
-Tất cả kinh sách của các tôn giáo, hay Pháp chúng ta trở lên thừa thãi, không cần thiết nữa hoặc không cần đọc nữa, nó chỉ là cái cần thiết nền tảng ban đầu cho việc tu tập mà thôi. Khi “bay” lên tận thiên hà xa xôi, thấy được Vũ trụ, thấy trái đất nhỏ bé đến vô hình, ta hòa nhập, chu du và hòa vào cái tĩnh lặng, tuyệt đối rộng lớn, toàn hợp với Vũ trụ-là Một-nhưng vẫn có trí tuệ riêng; có cảm giác ta mất cái tôi bản ngã riêng, cái tôi đó là cái tôi trong bản ngã chung của Vũ trụ, nhưng ta vẫn tồn tại, không mất cái riêng, vì mình vẫn còn ý thức. Lúc đó ta biết chắc rằng: Khi ta bỏ xác trần, thì ta như thế này, linh hồn ta bất tử, với khả năng thần thông thế này…Ta có ý chí riêng-là cá thể rất nhỏ trong mênh mông-hòa hẳn vào mênh mông của Tạo hóa. Ta là ta, cũng không phải là ta nữa. Ta nhìn rõ xác trần của ta-nó sẽ là cái áo ta sẽ cởi ra khi mãn kiếp. Ta có thể thấy các vong hồn, thần thánh, thậm chí được may mắn nhìn thấy Vua Cha vĩ đại, mới thấy cõi vô hình vĩ đại. Ta thấy mình có một sứ mệnh trong vũ trụ. Và chúng ta thấy, các qui luật cùng kinh sách thầy viết đúng như thế-nay trở lên thừa, vì đã thấu Đạo, giác ngộ hoàn toàn-đây là giác ngộ cao cấp.
Hóa ra, qui luật Vũ trụ vĩ đại thật, mọi sự sinh sinh hóa hóa, thoắt đến thoắt đi, luân hồi vô biên, biến ảo vô cùng; thấy rằng, sự thực là tất cả các đạo giáo cùng một gốc, cùng là dạy con người trở lên toàn giác đến thế này, tôn giáo không phải là cứu cánh cho con người, mà là cách, phương tiện để giúp con người đạt giác ngộ, thấy kính trọng các minh sư, thần thánh tiên phật đi trước chúng ta. Mọi kinh sách, cái pháp…đều là hình tướng, nhưng không có pháp, không có huyền pháp, thì người tu hành thường tu không đạt đạo. Biết rằng: Trái đất, thân xác người…là thể vật chất đậm đặc nhất, ô trọc nhất, linh hồn bất tử, và khi xuất hồn thấy rõ thể vía đen, xấu hôi trọc, hay trong sáng thanh cao là do tâm-tu xác-luyện ( mỗi tâm tu không đủ đắc Đạo, hay mỗi luyện xác không đủ đắc Đạo, mà phải tâm tu, xác luyện; còn tu hành không tâm tu, xác luyện tất không thành Đạo, dù có vào chùa, hay lên núi tu tiên cũng thế thôi), mới thấy tại sao phải ăn chay, thanh lọc cơ thể mới đắc pháp (chứ không phải cố tình ăn chay-chỉ là hình tướng). Chúng ta sẽ thấy, cái chợ đời hỗn tạp đáng thương (đáng thương chứ không đáng ghét), ta trung dung ngồi trên cái chợ đó, lặng ngắm quan sát, tách mình ra, thấy thanh thản vô biên, thương và sợ thói tham tàn và mọi trò đời đen bạc khác, vì nó vô nghĩa hoàn toàn với ta lúc này, ta không thiện, không ác, không tức, không ghen, không cần và không cần ai khen ngợi, không cần danh nổi, chả ghét kẻ ghét mình, nghe lời chê không ghét, nghe lời khen không mừng; đường còn dài lắm, đắc ngộ mới chỉ là bước đệm để thực hành Đạo mà thôi; sống bình thản và công bình đánh giá mọi sự một cách minh triết nhất, không có nghiêng lệch; ta thấy không cần gì cả, ta sợ cả sự ràng buộc của thế gian-thấy sự an lạc vĩnh cửu-hay đây chính là trạng thái Niết bàn của Đạo Phật, hay siêu thoát cao độ-tất nhiên là hoàn toàn không sợ phải chết nữa. Sợ sát sinh, vì thấy mọi vật đều có linh hồn; sợ làm bẩn hồng trần và xác thể mình…
Đây là trạng thái giác ngộ cao nhất, siêu thoát cao nhất, ứng với trình độ tu luyện cao cấp, gọi đó là thành Đạo. “Thành Đạo” chung cho mọi tôn giáo, mọi tu sỹ, đạo sỹ, nhà tu hành…
Nếu mãn kiếp, người tu đến bậc này sẽ thăng lên các cảnh giới rất cao, cúng chay hoàn toàn; các tín hữu biết mình sẽ đến đâu rồi…
II- Đĩnh ngộ nhập thế:
Thiên Đạo của chúng ta Đạo đời song tu, không bỏ tục trần, lánh đời hưởng lạc thú an lạc, mà phải nhập thế xây đời bằng Chính Pháp, thì sau khi chúng ta đạt trạng thái cao quí này rồi, vẫn phải quay về thực tế cuộc sống để sống trong một đời sống chúng sinh với đủ thói tật hàng ngày. Chúng ta lại có gia đình, chồng vợ, con cái, lo ăn mặc lao động sản xuất; chống cái ác trong lòng, cái ác ngoài đời…
Vậy phải làm thế nào? Thánh Đức thần tiên tại thế là thế nào? Hay là lên núi tu tiên, vào chùa tu hành? Không được, vì Chính pháp. Vậy chúng ta phải Đĩnh ngộ nhập thế.
Đĩnh ngộ là thế nào? Là Đĩnh đạc giác ngộ, tức là đĩnh đạc tâm trí, nhận rõ ranh giới, giá trị của Pháp, của đường tu luyện bản thân, hòa đồng cùng đời sống, nhưng không vào hùa, lặn ngụp trong đó với mọi thói đời thường tình; nhưng thật giản dị, chân thành trong cuộc sống, chứ không kiêu hợm cá thế, đĩnh ngộ rất quan trọng; nhiều người thiền tu rồi, vì thấu ngộ, thành ra khinh đời, khinh kẻ bần tiện, hóa thành hâm hâm, thích giảng đạo, thích triết lý vụn vặt, nói đến cái cao siêu, khi chân mình còn lấm đất, chưa thoát được tục giới.
Thấy cái gì cũng không như ý mình, thành ra khó chịu với mọi thứ, muốn thoát tục cho nhanh. Lại nữa, có người khi giác ngộ rồi, nhưng sau một thời gian, không giữ được lòng thanh, có tham luyến mọi thứ tạp bậy, danh vọng, thậm chí có kẻ dùng huyền thuật thần thông làm việc bất chính, hại người thiện, tất đoạ sang đường tà.
Ranh giới thiện ác, chính tà phải xác định cho thật rõ: Càng đắc đạo cao thâm, càng ít lời, càng ít nóng giận, càng ít phàm thói; không tranh biện dông dài; cấm tranh biện và triết vụn, khoe ngộ năng linh; trổ tài huyền thuật. Yêu thương con người, sống vì mọi người, không tham mọi sự, không khinh thường cuộc sống trần ai, mà cải hoán nó-vì nó là trường học, cái nôi muôn đời, sao bỏ nó được. Đó là thiện, còn ngược lại là tà. Ta cấm các đệ tử bỏ đời, ham thoát tục; mà giải thoát bằng cách tâm tu hằng ngày, bằng cách thiền công, rồi giữ mình trong cuộc sống; gắng làm mọi việc có ích nhất cho mình, gia đình và cộng đồng một cách chân chính. Ta nhắc lại: Đắc ngộ-giải thoát chỉ là bước đệm thành công để hành đạo-tức là thực hành Chính Pháp xây đời tại thế! Thánh Đức thần tiên tại thế là như vậy. Cho  nên, Thiên Đạo khác xa các pháp môn ở lý đó.
Khai nhãn, đạt thần thông, chỉ là một bước tiếp của con đường tu luyện. Ta ngay từ đầu nổi Pháp, đã nói, chỉ cứu bệnh và tâm linh một thời gian, để thiên hạ biết đường, rồi để dạy học trò. Có lúc triển khai thần thông, cốt cứu đời, mở Pháp, không vì danh lợi tầm thường.
Đĩnh ngộ nhập thế, tức là sống để cải tạo bản thân-xã hội; nếu không đĩnh ngộ, nhận thức giác ngộ hàng ngày, khi thiền công tự sám hối, tự soi rọi lại tâm-thể, mình thấy cái đúng sai hay dở ta đã làm được thế nào, rút kinh nghiệm ra sao, thanh lọc ra sao, khí chất nội ngoại vía tốt hay xấu, tư tưởng thanh trọc hay dở gì…Chớ cầu khấn, kinh kệ nhiều, phải tự cứu mình trước khi Trời cứu. Cứu mình là nâng cao mức năng lượng bản thân, đức năng thắng số bằng hành đạo thiện lương, tu luyện khí công siêu đẳng, tất được khỏe mạnh, thanh tươi, phúc thọ an vui. Rồi khi hiểu và ứng dụng được năng lượng-tâm linh trong cuộc sống, sẽ thấy không cần chọn hướng nàh, chọn tuổi vợ chồng, chọn ngày tốt xấu, rồi yểm đảo, giải hạn cúng sao cúng vía, đốt vàng mã là thừa thãi, vô nghĩa đối với chúng ta; cúng tà thần, cúng mặn là tà môn, mê tín ngu muội, càng hại thêm cho vong hồn; mới hiểu Vua Cha và Ta, các thầy dạy đúng. Tự mình xử lý mọi việc, coi trò bói toán, mê tín chỉ là nhảm nhí, vì mình tu luyện tốt, sẽ biết mọi chuyện, mình nắm được số mệnh cũng như con đường của mình, số phận trong tay mình. Mới thấy Ta cấm học trò ngồi đồng, giở trò bói toán, thực hành huyền thuật kiếm ăn là đúng đắn. Ta cấm muôn năm sau; kẻ nào không làm đúng, tất không phải là thần dân Thiên Đạo, phải đuổi cút chúng khỏi Thánh Đức, nếu không sẽ phá Đạo, phá Pháp, phá Thánh Đức. Tại sao như thế, học Luật Đạo để hiểu thêm.
Muốn thế, ngày nào cũng phải tui luyện Đại Pháp Tâm Công, xuất vía lên Kim Tự Tháp trên Trung giới của chúng ta mà tu, học thêm, rồi lại trở về trần mà hành Đạo; lọc sạch bụi tâ, tẩy sạch khí ám ra khỏi người hàng ngày, để tâm hồn thể vía thật sạch sau mỗi ngày nhập thế; cùng nhân loại tiến bộ tiến lên! Ấy là đời đạo song tu. Đó là cứu mình, rồi cứu người, muôn thế hệ, khi nào loài người còn sống ở Hạ giới được, thì còn phải đạo đời hợp nhất!
Ta gieo Pháp này cho nhân loại, cốt ở việc âý mà thôi!

                                                     VẤN ĐỀ TÌNH DỤC
Tập trung vào các điểm sau:
1-Qui luật tự nhiên, có âm có dương, mới tạo thành Vũ trụ, mới sinh sôi, tồn tại. Tạo hóa đã tạo ra đàn ông và đàn bà thông qua tính dục để tồn tại, như muôn loài khác. Diệt dục, xét một cách toàn thể, là diệt sự sinh, trái qui luật tự nhiên.
Nếu tất cả ai cũng diệt dục, tất không còn xã hội loài người.
2-Tu hành khác hành đạo. Tu hành không có nghĩa là tu lối khổ hạnh, từ bỏ mọi nguyên lý tự nhiên và xã hội của con người. Chúng ta tu-luyện-hành đạo-xây đời; chứ không tu, cốt lấy giải thoát cho mình nhanh chóng, xa rời xã hội.
Tu hành, nhưng không có phương pháp cải biến sinh lực và năng lực tính dục, tất mang họa và đau khổ, cốt bì thanh khiết, nhưng tâm dục chưa chắc đã hết. Hậu quả là quá nhiều cha cố Công giáo đã phản đạo đức-đạo đức giả, sư sãi ố lậu-bởi họ tu nhưng không thoát được cái khổ lụy từ nhu cầu bản năng tất yếu, không hết thèm tự nhiên-họ không có lỗi gì, có chăng là quá sức của họ mà thôi; tu hành, nhưng không có phương pháp tu luyện để chế ngự dục năng, thì không thể siêu thoát được.
3-Chúng ta sống hợp qui luật tự nhiên, tu tâm-dưỡng tinh-tồn thần. Đó là bảo hoàn Tinh-Khí-Thần. Tinh huyết-tinh chất tạo ra nhựa sống, bảo tồn tâm thể. Khí mạch-bảo tồn năng lượng tiên thiên-hậu thiên-thần minh bảo tồn trí khí tinh thần. Cả ba đảm bảo sự tồn tại của con người. Nên sống, tu luyện phải đạt được bộ tam thanh đó. Muốn có tinh, phải sinh hoạt, bảo tồn nguyên khí âm dương, trong đó có giao hòa tính dục một cách khoa học, chính đáng, để làm thăng hoa Khí-Thần. Luyện khí, giữ khí, cốt để mức năng lượng cân bằng, chứ không dư thừa. Khi đạt cấp, thần minh thăng tiến, trong  đó có trí tuệ và tiến hóa tâm linh. 
4-Sinh hoạt tình dục phải trở thành một đặc trưng sống, có tính khoa học cao, trở thành một hình thức giao tiếp bản thể âm dương và giao hòa với vũ trụ, thông qua đối tác, để hòa nhịp với sự sống của nhiên. Ai chối bỏ nó, hoặc quan niệm lệch lạc, là chống qui luật tự nhiên-trừ bệnh tật, thần kinh….chưa chắc đã đắc pháp-trừ trường hợp bậc chân nhân siêu phàm. Còn với đại số người, phải coi đó là một nghi lễ của cuộc sống. Chỉ cần chống quá đà và mắc tội lỗi mà thôi.
5-Tự nhiên chỉ có bản tính âm dương-cân bằng; thì con người cũng chỉ nên có một vợ một chồng-quá đi thì lệch, người kia không còn hạnh phúc cá nhân tinh thần; cho nên muôn đời, chỉ được lập một vợ-chồng. Trường hợp đặc biệt, có tính cụ thể tạm thời, thì xét sau.
6-Phải coi vấn đề hạnh phúc hôn nhân và tình dục là một nội dung rất quan trọng trong đời sống xã hội; không được coi nhẹ. Xã hội an lạc, trước nhất con người phải hạnh phúc trong gia đình, về tinh thần rồi mới tính đến vật chất.
7-Muôn đời nam giới coi trọng trinh tiết, phụ nữ coi trọng thủy chung. Cả hai đạt được điều này, là tôn trọng bạn đời và tất nhiên là đảm bảo yêu cầu đầu tiên của xây dựng hạnh phúc gia đình.
8-Mọi nghi lễ hôn nhân phải được coi là một cuộc hành lễ chứng ngộ các giá trị nhận thức về Đạo Trời, chớ nên coi nhẹ.
9-Không có ai có quyền  đòi hỏi đặc lợi về tình dục, không có ai bị từ chối về đời sống tình dục, các cấp tu luyện, coi tình dục như không khí, cơm ăn nước uống hàng ngày. Tu luyện kết hợp tu luyện khí lực tính dục để đảm bảo trước nhất là sức khỏe, tinh thần, sau là hạnh phúc gia đình, sau nữa là giải thoát, giác ngộ hoàn toàn.

NGÔN NGỮ, ĐỨC NGÔN VÀ TÍNH BIỆN CHỨNG

Ngôn ngữ, bao gồm lời nói và chữ viết. Đức ngôn-là cái đức thể hiện qua lời nói và chữ viết.
Ngôn ngữ là sản phẩm của trí tuệ-tư duy-ý chí-nhận thức.
Nói, viết phải có mục đích, nội dung và hình thức. Đó là ba mặt của một tác phẩm ngôn ngữ hay văn nghệ, trong đó có cả ca nhạc.
MỤC ĐÍCH:
Phải trước nhất, xác định mục đích để làm gì? Nói, viết để vì cái gì? Mục đích là cái đích của hành vi thể hiện ngôn ngữ: để làm gì, cho ai, tiêu chí ra sao, mang lại ý nghĩa, thông điệp, tác dụng gì? Đây là sự quan trọng nhất, vì suy đến cùng, mọi sự đều có cái chủ đích của nó; nói, viết mà không nhằm mục đích gì, thì thà không nói, không viết còn hơn! Không nói, viết tầm phào, ba hoa, vô thưởng vô phạt, trừ việc nói chuyện bình thường.
Tính mục đích của ngôn từ phải có lương tâm, đạo đức và có giá trị của lương tâm, đạo đức. Cái này quan trọng hơn cả. Cốt nói, viết vì mục tiêu đó. Khi ta nói, giảng, viết, phải lấy mục tiêu phục vụ nhân dân, dùng ngôn ngữ của nhân dân, hướng tới quyền lợi chung, thì nên nói; lấy phụng sự đạo đức làm trọng, làm đầu, với lương tâm trong sáng, đạo đức rõ ràng, không vì mục đích xấu. Vì Phật tổ nói: Thân-khẩu-ý đều tạo nên nghiệp, đúng như vậy. Vì văn-ngôn, vốn là từ nguồn gốc của ý chí, gốc cội của nó là tư tưởng, tư tưởng tạo nên hình tư tưởng; tư tưởng và tinh thần tạo nên sức mạnh to lớn, ảnh hưởng đến con người, sự vật hiện tượng. Cho nên, anh nghĩ tốt, chắc sẽ vì cái tốt, đạo đức mà viết, nói; nói ra là khẩu quyết, khẩu ngôn, hành ý. Trường hợp ý xấu ngôn đẹp cũng có, nhưng không sớm thì muộn cũng lộ diện. Vì xét cho cùng, cuối cùng là hiệu quả của hành vi hành động của anh. Một kẻ tham tàn, ích kỷ riêng mình, nói hay nói tốt, nhưng chắc chắn sẽ làm không như nói. Y sẽ không bao giờ lấy tiêu chí phục vụ nhân dân, nhân loại, phục vụ Cha lên làm đầu. Y sẽ biển thủ, biển lận, tham ô, nhũng nhiễu, tranh đoạt, hại người thiện lành phía sau lời nói, lời viết.
Có thiện chí phục vụ, cống hiến rõ ràng cho xã hội, chứ không cốt nói để chỉ khoe tài, nói nhiều cốt khoe lý, khoe cái giỏi cái hiểu biết. Nếu có thế, thì cũng vì tinh thần cống hiến, phục vụ. Người ta nói đó là học thật, chứ không học giả, nói hay, mà làm không hay, làm ngược. Phục vụ ai? Phục vụ nhân dân chúng sinh, bổ sung và làm cao thêm nền văn hóa của nhân loại, làm cho sáng hơn; làm cho chúng sinh hạnh phúc, để nhân dân sống và sáng tạo, cải tạo đời sống tinh thần lên cao đẹp hơn. Đó là văn ngôn có thiện chí, còn là văn cứu người, giúp đời. Trân trọng cái tốt, cái đẹp, cái chân thật, hiền lương; biết bảo vệ cái đúng đắn, chân chính; biết đấu tranh với cái ác, cái xấu, cái dị mọ hồ đồ, với cái xảo ngôn, tinh ranh xảo từ sáo rỗng, hoặc bôi đen hiện thực, bôi đen nhân phẩm và các giá trị chân chính của con người.
Mục đích cao đẹp của ngôn ngữ, là giúp đem lại cái sáng cho đời, cho người, chứ không đem lại cái xấu, cái đen, cái bẩn, cái ác, cái thô tục, cho dù hiện thực có là như thế, nhưng không được phép bôi đen thêm, mà nên phản ánh nó, ở một góc nhìn chính đáng, không tô hồng, không bôi đen, không thiên vị; càng không được tô vẽ bậy thêm. Làm như thế, thì anh đã phủ lên hiện thực một màu đen khác từ tư tưởng của anh. Làm sao, sau khi nói, viết, thì sự vật hiện tượng con người phải tốt lên, sáng lên, bớt hận thù, ngu muội, vô minh đi. Cho nên, dùng ngôn ngữ, là để cải tạo cho tốt lên, chứ không phải để cho cái xấu mọc thêm ra.
Viết, nói, không nhằm dụng ý xấu, như bôi nhọ, vu oan, hồ đồ, gắp lửa bỏ tay người, xuyên tạc bản chất của vấn đề; dù có đọc được ý nghĩ, thì cũng phản ánh cho đúng, và tôn trọng giá trị con người, bản năng con người; phải xét mình, rồi đến xét người khác; đặt mình ở vị trí và hoàn cảnh của họ, với cái thái độ điềm tĩnh, nhân hậu. Tại sao khi chúng ta có kẻ thù xấu, chúng lại rất nhanh chóng nhận ra điểm yếu và cứ nhằm vào đó mà soi xọc, vu váo, trong khi ở chúng đẫy rẫy thói tật, đạo đức xấu hơn ta? Vì chúng rắp tâm hại ta, tất nhiên thông qua miệng lưỡi ngôn từ. Hãy dùng đức trị chúng, thay vì lại dùng ngôn ngữ của chúng; bằng ngôn ngữ lời nói cho sáng, cho đẹp; lấy ánh sáng Cao Minh phủ lên đối tượng để qui thiện chúng.
Văn từ phải thiện, lành, hướng đạo. Người xưa  nói: Văn dĩ tải Đạo là như vậy.
NỘI DUNG:
Nội dung là cái mình muốn diễn đạt, truyền đạt cho người khác, là thịt của tác phẩm hay chủ đề hành ngôn. Phải sáng rõ, chặt chẽ, đầy đủ điều muốn nói; đủ hàm lượng tri thức cần truyền đạt, phù hợp với đối tượng tiếp thu. Nội dung muốn nói gì, thì chủ đề phải rõ ràng, bám theo chủ đề mà thể hiện. Tránh nói một đằng, nghĩ một kiểu, bí rị, ám thị, gây khó chịu. Tất cả phải rõ ràng. Nội dung phản ánh hiện thực càng thực càng tốt-đây là qui luật của nghệ thuật. Bám sát đời sống hiện thực để phản ánh, trung thực, khái quát hóa, điển hình hóa lên. Tô hồng một chút không sao, nhưng chống bôi đen, nói quá cái xấu, cái không đáng nói. Chống dung tục hóa, thô lậu hóa. Khi nào văn nghệ sỹ hướng đến cuộc sống nhân dân, ngoài cá nhân, thì văn chương còn có giá trị hiện thực tốt; khi nào họ chỉ hướng đến cái cá thể cá nhân, với so lo tính toán vụn vặt, buồn vui vụn vặt mang tính cá nhân, không hướng tới cái chung, cộng đồng, vì cộng đồng, thì văn chương lúc đó suy tàn.
Tôn trọng lời nói thẳng, thật, dù thô mộc, hay thanh cao. Phải chịu trách nhiệm và dám chịu trách nhiệm trước lời nói, ngôn ngữ tác phẩm của mình.
Khi nào, lúc nào, các hàng cán bộ, lãnh đạo minh triết, biết nghe và chấp nhận lời nói, ngôn ngữ thẳng thắn, trung thực; biết trọng người ngay thẳng hơn người nói xảo, ghét kẻ xu nịnh, gian ngoan đơm đặt, thì lúc ấy vận Đạo, vận loài người, quốc gia còn tốt, nguyên khí còn thịnh, nhân tài còn nảy sinh, xã hội còn đơm hoa kết trái ngọt lành.
Và ngược lại, khi nào lãnh đạo, cán bộ, thích nghe lời xàm tấu, nói sau lưng, đơm đặt, nghe một tai, xa rời hiện thực và quần chúng, quan liêu, ỷ lại cấp dưới, chỉ nghe báo cáo mà không suy xét, kiểm tra thực tế; hoặc không đi so sánh bổ sung điều nghiên cho nghiêm; khi dân chúng thích những kẻ xấu lươn lẹo, lời nói bóng bẩy, hào nhoáng và trổ mã vì danh tài lợi lộc cá nhân, thì lúc ấy báo hiệu sự suy vi.
Kẻ báo cáo, tấu báo trung thực, có kiểm tra, có bằng chứng, dẫn chứng, có kết quả thẩm định nghiêm, là kẻ có lòng vì dân, lòng thiện, mẫn cán. Kẻ nào chỉ dựa vào bằng chứng, dẫn chứng bề ngoài, nông nổi, huyễn ảo, ngoa dụ, tầm phào, tin đồn hư thực, không nghe chúng nhân, xa rời hiện thực, thích thuyết xuông, ưa đọc báo cáo, sợ tiếp xúc với quần chúng, lời nói bóng mỡ, chỉ cốt nước váng trên mặt…thì tất là khó trung thực, khó thực, chớ dùng, chớ nghe. Đàn ông thích tán tỉnh đường mật, câu chữ mây mưa, thì phụ nữ cũng nên cảnh giác.
Ta ghét nhất là nói láo, nói xiên xẹo và hồ đồ. Số kiếp Ta bầm dập, để nói những lời tâm huyết này với quí vị.
HÌNH THỨC:
Hình thức ngôn ngữ phải sáng, đẹp-văn chương phải rõ, gọn, sạch, nói ít, viết ít hiểu nhiều. Văn chương phải giản dị, thanh cao, nội dung càng gần với cách cảm, cách nghĩ của nhân dân càng tốt. Lời nói, câu chữ thật thà, là thanh cao nhất, đẹp đẽ nhất. Để cho cả loài người đọc được, hiểu được, thì ngôn từ phải rõ ràng, trong sáng, nội dung phải rõ. Tiếng Việt của dân tộc Việt Nam-là ngôn ngữ giàu hình ảnh, thuộc loại ngôn ngữ hay và đẹp, nhưng lại dễ học, dễ cảm, ngữ pháp đơn giản nhất thế giới. Sau này, nhân dân thế giới nên học tiếng Việt, để tiếp thu Thánh Đức cho phù hợp.
Viết, nói phải có gan, dám nói, dám viết những gì mình thấy đúng, hoặc thấy mình chưa đúng, dám nhìn nhận khuyết điểm của mình, của người; biết phê bình mình và phê bình người. Không có gan tự nhận lỗi, thì cũng đừng có gan phê bình người khác; dám nhìn vào sự thật, dù sự thật có đắng cay bao nhiêu, vấn đề là có sưa chữa hay không. Không bảo thủ. Vì lịch sử phát triển, tiến hóa, nhưng là tiến hóa đến cái chung nhất, hợp nhất, chứ không có qui luật nào cho sự phân hóa sau cùng, phân, rồi lại hợp mà thôi; tiến bộ là chính, thụt lùi, phản tiến bộ, chỉ là tạm thời, vì qui luật Chân Thiện Mỹ rất rõ rồi, cho nên, không sợ cái xấu, không sợ cái ác, không sợ chết, vì không ai chết, không sợ khổ, vì không ai khổ khi xác định tĩnh tại và an bình cho mình; không sợ đấu tranh, vì đấu tranh sẽ sinh ra tiến bộ, phát triển-nhưng không được lạm dụng trở thành bạo lực phản kháng quá luật, quá cái cho phép; đấu tranh với thói xấu trước của mình, rồi đến người. Giống như mình đi xâm lược, nhưng cứ dạy người khác về nhân quyền thì không hợp luật, mình không ăn chay, mà cứ nói yêu thương chúng sinh, là không hợp luật. Mình kêu đau đời, nhưng dửng dưng nhìn cái đau của người nghèo, khổ, hư dốt, cái đau của những con vật bị cắt tiết-nỗi đau như khi mình đau thôi-là không hợp luật.
Bao nhiêu triết ngôn, bao nhiêu kinh sách, bao nhiêu mỹ từ, mà đọc, nói, viết, nhưng không làm theo, thì cũng vô nghĩa, còn thua một việc làm thực tế. Chớ triết ngôn, trích kinh điển, kiểu làm bóng cho bài viết cốt khoe kiểu lý ngôn, nhưng rồi sa vào kinh viện, giáo điều, hơi một tý lại lấy điển tích ra, học gượng, ốp vào, gán vào, thì sau sẽ có họa diệt vong. Nói, viết, mà không mới hơn thì đừng nói là nghiên cứu, mà chỉ là học, tham khảo. Nghiên cứu đề tài, khoa học…mà cốt lấy bằng cấp, trưng dụng chữ nghĩa kiểu học vẹt, chọn vẹt, tạo ra tiến sỹ giấy…thì phải bỏ, nếu không phá hỏng cả nhiều thế hệ, mất hết nguyên khí, nhân tài. Sau này thi nhân tài, cốt thi lấy đạo đức và học thuật, đạo đức thì lấy hiền lương, hiền lương cần nhất là thương dân, không thương dân, chỉ là láo khoét, thương dân thì có tất cả; học thuật thì lấy đề tài khả thi, tính khả thi, thì lấy cái mục đích phụng sự nhân dân, có tính thực tế, thực dụng làm đầu. Dùng người tài, chớ trọng bằng cấp, học thuật làm đầu, mà trọng đạo đức, cái tâm của họ với đời, với việc và trình độ khả năng thực tế của họ; chớ trọng lời lẽ, vì lời lẽ, câu ngôn, ta chỉ cho là ảo, vì lời nói như gió, bay đi, lưỡi không có xương.
Miêu tả không dung tục, kể cả viết về tình dục, cũng không được miêu tả thành việc tục tĩu bình thường, kích động dục năng, vì dục năng và hành vi tính dục có sẵn trong người rồi, kích thêm làm gì? Viết về tình yêu, thì viết cho trong sáng, thanh cao, vì tình yêu nam nữ là biểu hiện cao nhất của vẻ đẹp tinh thần, của tạo hóa, phải thi vị nó, cho nó đẹp, chứ không chỉ biểu nhiện ở mặt tình dục, vì tình dục vốn chỉ biểu hiện bản năng giới tính, chứ không phải là tình yêu, nó là nền tảng của tình yêu nam nữ, nhưng không quyết định tình yêu. Tình yêu phải từ niềm tin, lẽ sống, từ sự hòa hợp và hòa nhập của hai tâm hồn.
Văn chương hay, thì câu chuyện, cốt chuyện phải hay và câu từ hay, đem lại hạnh phúc, tình yêu, sự cao thượng, đẹp đẽ cho người đọc, cho họ niềm tin, sức sống, hướng thiện, phá tan cái ác trong lòng họ, cái ác ngoài đời…thì đó là văn đẹp, có thẩm mỹ. Tránh lối văn cầu kỳ, rối rắm, rỗng tuếch, thương vay khóc giả, thơ giả, văn giả, cốt mua vui nhếu nháo, không vì mục đích tốt đẹp; kể cả chuyện vui, chuyện phiếm, để giải trí, thì cũng cần sáng, sạch. Nội dung hay, hình thức thô vụng cũng chả sao. Nội dung xấu, nhưng hình thức thể hiện đẹp đẽ, văn hoa, đó là thói thường, đáng sợ. Cái mục đích là giúp đời sáng, thì ắt nội dung sáng và hình thức cũng sáng theo thôi.
Văn chương, ca nhạc, văn học nghệ thuật đặc biệt tôn trọng và phát huy tính dân gian, càng gần với dân gian càng tốt. Nhạc chống ủy mị, buồn bã, thoái chí, làm cho con người chán nản, sầu bi. Việc tác dụng của tư tưởng đến sức khỏe, tinh thần, linh hồn thế nào thì các vị đã biết rồi. Nhạc đám ma, cũng không nên sầu bi quá, mà phải làm cho linh hồn, vì linh hồn là chính, để cho họ thấy tin tưởng, thanh, sáng láng ra chân lý và cuộc sống mới.
TÍNH BIỆN CHỨNG: Xuất phát từ Ba qui luật lớn-Đạo Trời; là tính thống nhất, vận động, nhân quả, phản phục, phản lực, tâm linh-của mọi sự vật hiện tượng. Khi xem xét phán ánh, viết về cụ thể một sự vật hiện tượng, hay con người, chúng ta phải xem tính hợp lý thống nhất của nó, trong mối quan hệ xung quanh, trong mối quan hệ chung, tính chỉnh thể chung; cái gì cũng có tính hợp lý tồn tại của nó tại thời điểm đó, tại sao nó tồn tại được, tồn tại bao lâu, trong phạm vi thống nhất nào, mặt đối lập của nó là gì; sự vận động theo hai mặt giả định, vận động trước (lịch sử-cũ), vận động tại chỗ (hiện tại-tĩnh), vận động sau (tương lai-động-xu hướng) của nó, nhân quả-nguyên nhân (tại sao), hậu quả, kết quả, nó tác động, tạo ra lực gì (như thế nào), phản phục và phản lực của nó ra sao( đối lập), mức độ tồn tại năng lượng-hay chính là sức sống của nó như thế nào, bao lâu (dự báo-tâm linh) trong không gian hữu hình và vô hình. Muốn đánh giá được các mặt ấy, thì ta phải tách ra, đứng xa và trên nó-để đánh giá, có nghĩa ta phải dùng con mắt khách quan của ta, rồi xét trong mối quan hệ giữa ta, với sự vật, hiện tượng ấy-tức là trước, trong và sau khi đánh giá, ta lại phải giải quyết mối quan hệ chủ quan của ta-với nó-khách quan. Bởi vì: Khi ta nhận xét, hay nhìn, hay tác động, hay phản ánh, thì đã tự nhiên xác lập một mối quan hệ chủ thể-với khách thể là mình với đối tượng được phản ánh, được thể hiện, được xem xét. Có như thế, mới không nhìn lệch lạc, một chiều, sai trái, phản ánh đúng như nó có, đúng bản chất và hình thức biểu hiện của nó, thì không bao giờ sai. Dù đó là con người, có hậu kiếp tiền kiếp nhân quả, bản chất hành vi công quả, tài đức..đến mọi sự vật, hiện tượng khác.
TINH THẦN BIỆN CHỨNG: Trong việc phản ánh thể hiện mọi vấn đề, phải có đầy đủ tinh thần tự giác để thể hiện và phản ánh thuộc tính của Ba qui luật lớn-đó là tinh thần biện chứng của chúng ta: Mọi sự vật vận động, biến đổi, sinh ra và mất đi, trong mối quan hệ và tác động tổng hòa của Ba qui luật lớn-tức Đạo Trời. Trong mọi sự vật hiện tượng, khi không phản ánh, hay đánh giá được Tinh Thần Biện Chứng trong nó, thì còn sai hoặc chưa đầy đủ. Tinh thần biện chứng khác tính biện chứng.
ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG: Đấu tranh với kẻ đối địch, cần nhất là bình tĩnh, xét xem họ nói gì, nói như thể nào, nội dung, biểu hiện, bản chất của hành vi đó; họ đấu ta, chống ta vì lý do gì, trình độ thể hiện, cách thức thể hiện, từ đó có phương cách chống lại. Tùy từng đối tượng, mà có cách tác động, giáo hóa khác nhau; lấy giáo dục, thuyết phục, để qui thiện trước, rồi mới sử dụng biện pháp khác. Cần tập trung vào mức năng lượng và trình độ tiến hóa linh hồn, để giáo dục tâm lý, biết tạo ra khẩu nghiệp, thân nghiệp cho họ để họ giác ngộ-nếu không cho họ thấy hậu quả, tất khó giáo dục; lấy giáo dục linh hồn-cận tâm lý làm chính-tức xoáy vào tâm lý ý thức vô hình. Dùng ngôn ngữ, văn chương để làm vũ khí sắc bén; dùng biện pháp dư luận và tạo ra dư luận tập thể để giáo dục; phải biết phát huy sức mạnh đồng thanh tương ứng và sử dụng mức năng lượng để tác động vào năng lượng trên Thiên đình và Hạ thế. Chúng ta nên nhớ, thời mới, Cha Mẹ và các thánh ưu tiên và rất quan tâm hỗ trợ cho chúng ta rất nhiều việc, bóng Ta trên đó, tất nhiên hỗ trợ mạnh hơn, theo quyền pháp của mình; Thiên bảo trượng được Ta nắm giữ, sẽ khó có kẻ ác chống lại chúng ta, mà không bị báo ứng, nếu không qui thiện.
Mọi việc cần nhất là công tâm, công chính, công bình, chính trực, trung thực-ấy là bảo khí muôn đời của thần dân Thiên Đạo.
Như thế-gọi là có ĐỨC NGÔN. Cùng với Tu đức, luyện thân, độ nhân, lập thế của người Thiên Đạo. Đức ngôn thuộc về tu đức.
Đức ngôn phải thể hiện được tư tưởng Đại đồng-Đại Thiện-Đại Mỹ-Đại Linh, phản ánh được và mà nảy sinh được Chân-Thiện-Mỹ, thì chắc chắn có giá trị. Đó là đức ngôn.
                                                          *   *   *
Có vô khối nước thời mạt thế, kẻ nói là bình đẳng, bác ái,  tự do, nhưng họ coi dân nghèo, dân tộc khác như trâu như chó; đi đánh chiếm xâm lược chà đạp lên danh dự, nhân phẩm của người khác, của dân tộc khác, mà lại nói là vì nhân quyền, bảo vệ hòa bình; chế tạo bom đạn, buôn bán bom đạn, giết hại con người thảm khốc, lại nói là nói là nhân đạo, theo ý Chúa! Chúa thánh nào chứng cho họ điều ấy! Bắt tay hữu hảo, nhưng xọc dao vào lưng nhau, cướp đất cướp biển, cướp công, dồn đẩy rác rưởi, kể cả rác tâm linh, phá long mạch nước người, ngoài thì thơn thớt nói cười, còn trong thì hiểm độc có truyền thống, mà nói là theo ý trời-trung tâm của thế giới, tự coi mình là văn minh nhất, trung tâm nhất, thì Trời nào chứng cho họ! Đó là gian nhất thế gian.
Nói cho đúng, làm cho đúng cái việc mình nói, dù sai, còn hơn nói láo, làm giả! Họ không có chúa thánh nào, ngoài chúa thánh tiền! Loại chúa tiền thì khủng khiếp lắm-hủy diệt cả nhân loại!
Ta có khi đã phải trừng trị thẳng tay lũ vong ma, diệt vài tên, khi giáo hóa không được, vì chúng quá hỗn láo, vô minh và tàn ác, không thể giáo hóa được nữa. Sau này cũng thế. Dù ta có về trên, thì vẫn hành xử những tên chống Thiên Đạo và nhân loại như vậy. Sau này, Thiên Đạo công khai xét tội đồ, rồi trừng trị cho toàn dân biết: Tên kẻ đó, sống tại thế có tội gì, xử ra sao; kể cả diệt vĩnh viễn, để làm gương cho muôn năm sau!
Đừng quên gương những tên tội đồ chống Cha Ta: Ju-đa phản Chúa xong, ngã vỡ bụng mà chết, rồi bị đọa vào địa ngục, nhà thơ Von-te nổi tiếng, cũng nổi tiếng chống Thiên Chúa, cũng bị đọa vào địa ngục, toàn quyền Pháp tại Đông Dương là Pierre Marie Antoine Pasquier, bị nổ máy bay chết, khi chống lại việc công nhận đạo Cao Đài, tất nhiên cũng bị đọa vào địa ngục.
 Luật mới sắp tới, một là giáo hóa cho siêu, hai là đọa Thiên ngục nóng khủng khiếp và ba là bị diệt linh hồn. Diệt-tức phá hủy linh hồn, cho nó thành hư vô khí-đấy là sự trừng phạt nhất của Thiên đình, thông qua chúng ta, hành đạo, thay Trời hành Đạo.
Cha đã từng dạy đạo Cao Đài: “ Các con hiền mà các con dữ, các con yếu mà các con mạnh, các con nhỏ nhoi mà là quyền thế, các con nhịn nhục mà là hành phạt, cử chỉ các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình thì là gần ngôi Tiên Phật đó”.
Chúng ta không từ bi như đạo Phật được. Từ bi của chúng ta, là cứu khổ cho nhân loại cần lao, một cách tổng thế, chứ không hỉ xả vô điều kiện cho chúng nó, rồi tự nó gánh nghiệp. Nó không gánh nghiệp ngay, mà tiếp tục làm hại người sau khi mãn, rồi mãi về sau, xa đọa vào nước quỉ, thì đến bao giờ hết nghiệp ác cho chúng nó?
Cứu người ngay oan, người bệnh tật vô điều kiện, cứu kẻ ác, thì phải cho họ hiểu ra chính nghĩa; lấy chính nghĩa mà cứu ác. Bảo vệ cái thiện, cái chính đáng, cái trong sáng, thì không sợ gì.
Phép xử tội hồn: Hàng năm, Tòa Ba ghi tội nhân tại trần, sau đó tấu lên Thiên đình và Ta, rồi được lệnh xét xử công khai chúng nó. Khi xét xử, lập Tòa án Linh tại trần, các thiên thần thiên binh tiên tướng dong tội hồn xuống, cho áp vong nhập hồn, rồi luận tội, sau đó tùy hình phạt, tội, mà xử lý, dẫn đi thụ án. Người trần dấu tội, không xử được, che tội cho nhau được, nhưng chúng ta xử được rất tốt những kẻ ấy! Kẻ nào dưới hạ thế, chống lại việc đó, lại xử tiếp chúng nó khi chúng nó mãn! Cho đến khi tuân luật thì thôi.
Tội nhân từ trước đến nay-đến khi lập Thiên Đạo vào Mậu Tý thời mạt, thì an xá tất, các vong nhân cho siêu hết, dạy cho siêu, trừ những tên ác quá mới diệt, còn từ nay trở đi, kẻ nào gây tội ác, tất bị xử; trên kia thì có sổ ghi, dưới này các vị cũng ghi cho Ta, nhất là những kẻ chống Thiên Đạo.

                              PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC

-Nhận thức của con người từ thấp phát triển từ thấp đến cao, nên phải giáo dục từ thấp đến cao, theo chiều tuyến tính; cố gắng không lặp lại, nếu lặp lại, thì phải ở một bước cao hơn, tiến bộ hơn.
-Vì con người có những đặc điểm thể chất, tính chất văn hóa vùng miền khác nhau, nên có các biện pháp giáo dục cho phù hợp, trên tinh thần và nền tảng văn hóa, tri thức chung. Văn hóa, tri thức phải được thống nhất trong đa dạng.
-Vì con người, có người thiện, ác khác nhau, nên phải tách thiện ác ra, đôi khi phải thế, để cải hóa, nếu không chúng sẽ nhiễm lậu cái xấu, nhất là khi cái tốt còn yếu, còn nhen nhóm, còn hạn chế.
-Vì năng lực cuộc sống và con người lao động sản xuất khác nhau, nên phải tổ chức lao động tập thể, để cân bằng năng lực lao động tập thể (trong một dây chuyền tất nhiên-không có tính cá thể, thì sẽ san bằng được năng lực), trong sự bình đẳng, công bình. Nếu không thì không bao giờ san bằng được khoảng cách giàu nghèo, phân hóa tiến bộ, lạc hậu. Xin đừng bài bác chế độ lao động tập thể, vì sợ cào bằng. Xin thưa, trình độ lao động tập thể sẽ là thước đo tiến bộ của tổ chức xã hội-tức là trình độ phát triển của cộng đồng. Sự không bình đẳng trong lao động, đã thúc đẩy sự tham lam của con người, bằng cách thúc đẩy sự tự do tranh đoạt, mạnh ai lấy làm, chen, vượt lên nhau…đã gây hậu quả cho thế giới. Chỉ có lao động tập thể, mới tạo ra giá trị tập thể, đảm bảo quyền lợi chân chính của người lao động, cho con người xích lại gần nhau, loại bỏ chủ nghĩa cá nhân và tính cá nhân phát triển không bình thường, phát triển không hài hòa với xã hội và cộng đồng của nó. Do đó, chúng ta phải hết sức coi trọng giáo dục tinh thần lao động tập thể, sự tiến bộ cố gắng chung, chống ỷ lại vào tập thể, sẽ hủy hoại sức sáng tạo tiến bộ. Nhân tài phải được trọng dụng tối đa, sẽ là động lực và là chỗ dựa cho tập thể phát triển, tập thể là nền tảng cho cá nhân tồn tại. Kể cả chủ nghĩa tư bản cũng cực kỳ coi trọng lao động tập thể, nhưng quyền lợi của tập thể lại cực kỳ mâu thuẫn với cá thể ông chủ tư bản, đó là mâu thuẫn không bao giờ giải quyết được trong xã hội tư bản. Mặc dù họ coi trọng nhân tài, nhưng để đem lại quyền lợi ích kỷ cho công ty, hoặc vì lợi ích cục bộ của một cộng đồng nào đó, chứ không phải vì mục tiêu tiến bộ nhân loại, trong động lực và tính mục đích chân chính của lao động.
Nhân tài được giáo dục tốt, thì họ sẽ không còn nghĩ chuyện bất công, vì họ phải đóng góp trí lực hơn so với người khác. Họ phải được giáo dục thành những công dân gương mẫu nhất, trong sự nghiệp chấn hưng loài người.
-Vì sự đồng đều không bao giờ được thể hiện tuyệt đối, nên bao giờ cũng xuất hiện những người tài đức hoặc các giá trị cao quí hơn, vậy ta hãy nêu cao những tấm gương đó cho mọi người học tập. Giáo dục thông qua những tấm gương, là giáo dục mô phạm nhất, mà không sách vở nào so sánh được.
-Giáo dục thông qua sự thúc đẩy tiến bộ cá nhân, coi tập thể là nền tảng, cá nhân là động lực, hết sức tôn trọng con người, quyền và lợi ích của họ; chống các hình thức áp đặt đè nén tùy tiện, xâm hại quyền tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Nếu làm thế, chúng ta sẽ biến giáo dục thành đen tối, phản cảm, phản tác dụng; xã hội sẽ đen tối về lâu dài.
-Thực ra, bao giờ sự trừng phạt cũng là hành động gây hậu quả xấu, với một nhân cách xấu, vậy chúng ta phải giáo dục thuyết phục là chính. Trừng phạt được coi là một biệ pháp răn đe, làm gương cho kẻ ác. Nhưng đôi khi, càng răn đe, nhưng không ai sợ, tội phạm càng nhiều. Vì sao? Vì đạo đức xã hội đã xuống cấp, luật pháp không nghiêm minh, thượng bất chính, hạ tắc loạn; con người không còn chỗ dựa về tinh thần, đạo đức, lý tưởng, thì không luật pháp nào ngăn được sự xấu xa. Họ sẽ hoàn toàn bị lệ thuộc vào xu hướng tự do cá nhân. Tự do cá nhân tùy tiện, sẽ là hậu quả cho bất cứ xã hôi nào.
-Công tác tuyên truyền giáo dục, công tác tư tưởng phải luôn luôn chủ động, nhạy bén và xung kích đi trước một bước dài. Chiến lược giáo dục phải hoạch định hàng trăm năm. Các chiến sỹ trên mặt trận tư tưởng văn hóa là những đạo sỹ ( Thầy lễ), các giáo viên, các nhà hoạt động văn hóa-khoa học xã hội và nhân văn. Ở họ phải có đủ phẩm chất: Trí tuệ, gương mẫu, khiêm tốn và nhạy cảm, mẫn cán. Trí tuệ, nhạy cảm là tài. Gương mẫu, khiêm tốn, mẫn cán là đức.
-Giáo dục tinh thần, tư tưởng trước, giáo dục thể chất, tâm thể sau. Vì tinh thần quyết định thể chất, thể chất hỗ trợ tinh thần phát triển; cả hai đảm bảo sự hoàn thiện cá nhân.
-Khuynh hướng tự do cá nhân luôn là khuynh hướng bản năng; và trong bản thân cá nhân, đã là một thực thể cá thể có tính tự do cao. Bản tính tự do tư tưởng và cuộc sống cá nhân, đảm bảo hạnh phúc cá nhân và cuộc sống cá nhân. Nhưng phải có cách giáo dục để tự do cá nhân ấy không đi chệch “vạch vôi”của pháp luật, tập thể. Đó là hành lang của anh ta ( ví dụ: tự do uống rượu-không quá 3 chén; tự do đi lại-phạm vi quốc gia; tự do tư tưởng, phát biểu chính kiến-phạm vi văn hóa tư tưởng Thánh Đức…). Có nghĩa: Không có tự do vô lối, tự do vô chính phủ. Muốn tự do vô lối, thì hãy là một thực thể không xã hội. Đạo-đời là một trường học lớn, ai cũng có quyền tự do hoàn thiện mình, chứ không thể phá đạo, đời. Ý nghĩa là ở chỗ ấy. Kẻ nào phá đạo-đời, là phá bản mệnh mình, kiếp nghiệp mình, lúc ấy ráng chịu, không ai thương. Vấn đề là ở chỗ cần tự giác.
-Xây dựng chế độ cộng sản, không có nghĩa là cộng lại tất cả, chung tất cả mọi thứ. Cộng sản là chế độ dùng chung tư liệu sản xuất chủ yếu, không phân chia tư liệu sản xuất và tư liệu lao động, chung tài sản vật chất lớn, để không phân hóa giai cấp, tầng lớp; bảo đảm chế độ công bằng, bình đẳng ( công bình) trong toàn xã hội, chấm dứt sự đói khổ, bóc lột, bất công. Chứ cộng sản không phải là chung vợ, chung chồng, chung nhà chung không gian gia đình, chung đồ vật dụng cá nhân riêng tư…những cái đó là quyền lợi cá nhân, phải được bảo đảm tuyệt đối, cấm xâm phạm.
-Làm sao để chống cào bằng? Cào bằng là nguy hại-vì nếu nó là tinh thần, tư tưởng cào bằng thì rất hỏng. Chúng ta chủ trương công bình, chứ không cào bằng, bảo đảm quyền lợi cá nhân, thông qua sự bảo đảm quyền lợi tập thể được tôn trọng, và tập thể ấy không ngừng tiến bộ, đi lên, chứ không chững lại hay thụt lùi. Chúng ta sử dụng biện pháp công bình: Công bằng trong quyền làm chủ tập thể, trong phân công lao động, trong phân phối vật chất; bắt buộc cá nhân phải thực hiện được định mức cho phép do tập thể qui định, thì được hưởng quyền lợi như mọi người khác; có nghĩa, làm như mọi người, mới được hưởng như mọi người; đó là theo nghĩa thông thường, đối với một lao động bình thường. Không quân bình chủ nghĩa (Tất cả đều như nhau), phải hiểu sâu khái niệm: Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu-không có nghĩa là hưởng quyền lợi vô tội vạ! Cùng lắm là đảm bảo mức sống trong ngày. Nếu chỉ có thế, thì không ai tham, không ai lấy quá nhu cầu của mình, không ai muốn tích trữ, vì mai lại có, của đầy ra đấy, càng sau càng nhiều. Anh ta sẽ tự giác chọn phần cho mình, phù hợp với yêu cầu cá nhân; giống như trong một cửa hàng ăn tự chọn, anh ta ăn theo nhu cầu, và không được mang về; vào cửa hàng may mặc, anh ta chỉ có thể được lấy một hoặc hai bộ quần áo, do công xã cho phép. Anh ta đủ dùng. Các việc khác cũng thế. Đó là hưởng theo nhu cầu.
 Chúng ta chỉ cần vài trăm năm không có chiến tranh hay phải sản xuất vũ khí, tốn công của vào việc tiêu diệt nhau, thì của cải sẽ vô cùng nhiều, trong khi khả năng ăn, dùng của con người có hạn, chứ không vô hạn. Chỉ sợ không công bằng, chứ không sợ thiếu. Ngay cả thế giới thời mạt hiện nay, nếu đem chia đều công bình cho cả loài người, thì ai cũng no ấm. Chi phí một chiếc xe tăng, một vũ khí tối tân, có thể nuôi được cả vạn người trong một năm. Hoặc tài sản của một tỷ phú Mỹ, có thể nuôi cả một vài dân tộc với cả tỷ người! Vấn đề là ở chỗ: lao động sản xuất tự giác cho mình và được hưởng trọn vẹn thành quả lao động, trong một cộng đồng hết sức tự giác, chân chính, đùm bọc yêu thương nhau, thì không sợ cào bằng, hay sợ quân bình chủ nghĩa nữa.
-Tất nhiên, quá trình tiến hóa đó có tính lâu dài, không thể cứ khăng khăng áp dụng chế độ hưởng theo nhu cầu ngay, tùy nơi, tùy lúc có thể sử dụng biện pháp làm theo năng lực hưởng theo hiệu quả công sức-nhưng không áp dụng cơ bản, vì xét cho cùng, phương pháp đó không phù hợp với chế độ công xã, nó thuộc về xã hội có thị trường. Nhưng xét một cách tổng thể, thì trong một quốc gia, công xã nào làm ra sao, thì công xã đó hưởng như thế. Đó cũng là làm theo năng lực, hưởng theo hiệu quả công sức. Không lẽ các công xã khác phải nai lưng ra nuôi công xã lười hơn? Không có chuyện đó. Cho nên, Ta mới nói, sẽ có công xã giàu, công xã nghèo. Nếu nơi nào có địa lý tự nhiên, khoáng sản tài nguyên thuận lợi hơn, phát triển tốt hơn, thì phải có trách nhiệm hỗ trợ nguyên vật liệu, kỹ thuật…cho nơi nghèo. Cho nên khi cần, phải lập cơ quan cứu trợ và tương trợ kinh tế. Tổ chức các hội chợ hàng hóa tiêu dùng, để các quốc gia, các công xã trao đổi vật phẩm cho nhau. Không duy trì kinh tế thị trường, nhưng phải có xã hội hàng hóa. Không nên duy trì chế độ công xã theo kiểu Pôn-pôt đỏ hay công xã kiểu Tàu trong thời mạt thế. Như thế là giết chế độ, giết chết lý tưởng một cách máy móc, ngu muội.
-Chế độ Thánh Đức là chế độ xã hội tốt đẹp vô cùng, rất khoa học, cho nên mọi hình thức áp dụng phải hết sức khoa học, cấm nhắm mắt làm liều, ôm bo bo một mô hình cứng nhắc, rồi duy ý chí sai lầm.
-Ngay cả trong một quốc gia, hay Khu tự trị, đôi khi do thực tế yêu cầu, vẫn áp dụng các chế độ quản lý khác nhau, mục đích là thúc đẩy nhanh sự phát triển cân bằng với nhau, để không tạo ra các áp lực mất cân băng, hay mất công bằng. Ví dụ: anh A giàu hơn, thay vì bị anh B suốt ngày vay mượn, hay phải hỗ trợ anh B, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của anh A, nên anh A san bớt tiềm năng cho, để anh B phát triển nhanh hơn, đỡ gánh nặng cho mình…Các việc khác tương tự.
-Tất nhiên, chúng ta cũng rất cần phải sàng sảy nhưng hạt giống lép ra khỏi cộng đồng, nếu nó làm ảnh hưởng đến tập thể. Một anh lười lao động, chắc chắn sẽ ngại đến nơi phân phối vật phẩm, ngại tham gia vui chơi bình đẳng với mọi người. Tự anh ta phải thấy xấu hổ, vì lý do cá nhân mà làm ảnh hưởng đến tập thể. Trong một tập thể tốt, thì không thể có những cá nhân tồi, có nghĩa, giáo dục và giúp mọi người cùng tiến bộ, là trách nhiệm của cả cộng đồng, nhưng trước nhất là gia đình.
-Muốn cấm cái gì, thì chúng ta làm tiệt nọc nguyên nhân của cái đó, ví dụ cấm thuốc lá, thì diệt hết cấy thuốc lá, muốn cấm uống rượu, thì cấm sản xuất rượu. Các việc khác tương tự: Cấm tham nhũng, thì diệt nguồn gốc tham nhũng là không cho cơ hội tham nhũng, không có cái để tham nhũng, tham nhũng rồi thì không làm gì được cái đó, không ăn hết, không tiêu được, không dám mang lên người, không kham nổi việc đã bao che…Cấm kẻ hồ đồ vu vạ, thì cho y ra ngồi một chỗ mà tự xỉ vả mình, tự vu vạ mình. Cấm kẻ ghanh tài thì cho y ra tự làm lấy cái việc mà y đã ghanh ghen với người ta, nếu y không làm được thì phạt. Cấm bon chen thu vén cá nhân, thì lấy lại hết những gì y hơn xung quanh; cấm tranh dành chức quyền, thì cứ có những kẻ có ý ghanh đua xấu, có ý tranh dành ấy mà gạch tên, để trừ họa cho dân…
-Về cách thức giáo dục: Phương châm “mưa dầm thấm đất”, rót vào, thấm vào, ngày này không nghe, thì ngày khác phải nghe, nói năm nay, nói sang năm, giáo dục truyền thống thì trú trọng giáo dục sự kiện, tấm gương, càng thấu, càng nhiều, càng lâu càng tốt; giống như cơm ăn áo mặc, sao không thấy chán, thì đạo đức, việc tốt cũng thế. Nhưng cấm hình thức giáo dục móc xóc, xiên xọc, tọc mạch, xâm phạm nhân thể, nhân cách, danh dự cá nhân; mắc lỗi gì, thì chỉ nói lỗi đó, không vu váo hay xiên xẹo sang các việc khác của người ta. Không hồ đồ vu váo, thái độ ác, đểu cáng, ác tâm, ác ngôn, ác khẩu, kiểu đấu tố, phỉ nhổ, ném đá tập thể, ném đá theo bầy, đánh đập, nhục mạ…những cái đó chỉ làm sinh lòng căm uất, căm thù cho họ mà thôi, thậm chí gây ra hậu quả rất xấu. Giáo dục phải thông qua tập thể, thông qua mô phạm có tính thiện, có văn hóa. Người giáo dục, muốn giáo dục được, thì mình phải giỏi hơn, đức hơn hoặc chính chân hơn, đại diện cho bề trên, hay đại diện cho tập thể, cho việc tốt, việc tiến bộ.
-Ai có tội, lỗi, thì người ấy chịu, không được lôi cả nhà cả họ người ta mà giáo hóa, gây phản cảm. Giáo dục, nhìn thấy cái tốt của người ta mà giáo dục, lấy cái đó làm lực thúc đẩy người ta tiến bộ; cấm nhìn vào cái xấu, thấy mọi thứ của anh ta xấu hết, giống như đeo cái kính phiến diện vào, nhìn  đâu cũng thấy đen, thấy lỗi. Đối với cả kẻ thù, cũng phải tôn trọng và từ bi, nếu ta đối xử với họ, như họ đối xử với ta, thì chúng ta thành ác, xấu, như họ. Cho nên, ngoài sự độ lượng ra, chúng ta phải đứng cao hơn họ về mặt tiến bộ, văn hóa. Vì vô minh mới ác.
Đánh giá con người, hay bất cứ hiện tượng nào, thông qua hình thức, nhưng phải đánh giá được thực chất bản chất của vấn đề, không chụp mũ, qui kết, thiếu minh bạch và tính chính xác, không ngụy biện cho hành động sai phạm. Đánh giá phải tuân theo tính biện chứng-Giáo dục thông qua toàn bộ kinh sách lý luận và thực tiễn đời sống phát triển của xã hội Thánh Đức.
-Chiến lược giáo dục phải tạo ra những lớp người hiền lương, có năng lực lao động, năng lực cá nhân để bảo đảm năng lực sống của xã hội. Mọi người phải được học tập, được tạo nghề và việc làm, trừ trường hợp mất khả năng lao động, còn lại mọi người phải lao động, một cách thích hợp nhất.
-Con người phải có khả năng thần thông để tiến hóa tâm linh, linh hồn. Khả năng thần thông-đắc đạo của cá nhân có cái tuyệt vời là: Chế ngự cái xấu và thúc đẩy tiến hóa cá nhân, đồng thời chế ngự cái xấu, giám sát người khác và giám sát xã hội. Khi đọc được ý nghĩ của nhau, biết được bản chất của nhau, số phận của nhau, thì hẳn xã hội sẽ đạt được thần thông quảng đại tập thể. Xã hội ấy vô cùng cao thượng và tốt đẹp, không có chỗ cho kẻ xấu tồn tại, không có cơ hội cho kẻ xấu phạm tội.
- Trong sinh hoạt tập thể, tự xét mình trước, xét người sau; xét cá nhân trước, xét tập thể sau; xét cán bộ trước, xét quần chúng sau; xét trên trước, xét dưới sau. Cấp dưới nhận xét, phê bình cấp trên. Cấp trên sửa xong, mới được nhận xét phê bình cấp dưới, như thế mới là xuôi chiều, vì đi từ gốc lên ngọn, không lộn đầu, không “thượng bất chính, hạ tắc loạn”. Thượng mà chính thì hạ không bao giờ loạn.
-Cấm báo cáo thành tích nhiều, cấm hành họp nhiều. Tất cả ở hiệu quả và thực tế đời sống. Báo cáo hay họp hành nhiều, chẳng qua là cán bộ lười, quan liêu, không đi sâu đi sát thực tế. Nếu đi sâu đi sát thực tế, thì nghe báo cáo, nhìn báo cáo, chỉ thị mồm, cần chi hành họp nhiều, mất thời gian, tốn giấy mực. Xây dựng chế độ đi công tác thường xuyên của cán bộ. Cán bộ mà không nắm được công việc trực tiếp, kiểm tra trực tiếp, là cán bộ quan lieu.
-Cán bộ tốt có phẩm chất như sau:
1-Thích gần gũi nhân dân, nghe dân nói, thương dân.
2-Giản dị, trung thực, tiết kiệm, liêm khiết, trọng nhân tài, thậm chí dám sử dụng người tài hơn mình. Mẫn cán với công việc.
3- Có tri thức, trí tuệ đảm nhiệm tốt công việc.
4-Tu luyện tốt.
5-Đời sống gia đình hòa hợp, an vui.
-Cán bộ xấu có tính nết như sau:
1- Ngại gần dân, dấu dốt, ngại lời phê bình, trù dập nhân tài, thích bon chen, thu vén cá nhân; ham muốn chức tước để cầu lợi riêng, ngoi lên cốt vì cá nhân.
2-Báo cáo láo, làm ẩu, che dấu tội lỗi, thích vênh oai, bảo thủ. Tính cách dở hơi: Đe nẹt, gằn hắt người, ghanh ghen đố kỵ, tỵ nạnh, đểu xảo, tiểu nông vặt, tinh quái xảo ngôn, lươn lẹo, hiểm độc, chua ngoa, bất nhân…
3-Trình độ kém, tri thức dở, thi láo, chạy chọt bằng cấp.
4-Kém tu tập, ngạo mạn, vô minh.
5-Gia đình lộn xộn.
Loại xấu đó, chỉ cần có một vài đặc điểm, nếu không sửa chữa, thì không nên dùng.
- Thi nhân tài, lấy đạo đức trước, tài năng sau. Điểm đạo đức được nhân dân tín nhiệm, nhân đôi. Có cả hai thì dùng. Nếu không thì chọn người có đạo đức, chứ không chọn người tài mà không có đạo đức.
- Khi phát hiện có người nâng đỡ kẻ vô đạo đức làm cán bộ, thì lập tức phải loại bỏ cả hai người; nếu cả tập thể thì phải bỏ cả tập thể, thay khối khác.
- Làm thầy thuốc mà không thương con người, tham lợi, vô nhân, bất đức, lười nhác, làm láo, kiên quyết bỏ.
- Làm thầy lễ, mà thích người ta đề cao, không thấy sứ mệnh phục vụ của mình, tự trọng mình, rồi gây nhũng nhiễu, thích ăn của biếu, biến đền thờ Cha thành nơi cầu lợi danh, thì kiên quyết loại thầy lễ đó.
- Khi xã hội phát triển, Thánh Đức cao, mọi người có thần thông, thì loại thày bói hóa trò mua vui, chớ dùng, loạn Pháp.
- Sau này công xã thành công, thì đêm ngày nhà cửa không cần khóa, vẫn không ai trộm, họ lấy chả làm gì, vì ai cũng như nhau. Giờ làm việc, mọi người hăng say lao động sản xuất, vui tươi, không bị đè nén. Làng xóm, công xã không ai căng go với nhau; không phải lo lắng, đấu tranh với người xấu. Không có chuyện tranh dành, lo lắng vì công ăn việc làm, chỗ ở, bệnh tật…Lúc nghỉ, ngày nghỉ, mọi người hòa đồng, vui ca, sinh họat văn hóa tinh thần vui chơi giảỉ trí lành mạnh, ca hát vang lừng. Rồi nữa  thì đi du hý, du lịch, píc níc, vũ hội…Tổ chức ra các hoạt động vui chơi đa dạng, thanh bình. Cây cối, nhà cửa, ruộng vườn, nha máy, sông ngòi…đều đẹp đẽ như tiên cảnh. Người vui hòa, đẹp đẽ, quảng đại thần thông, tôn trọng nhau vô cùng.
Đó là gì vậy? Thánh Đức. Thánh Đức muôn năm! 

CON ĐƯỜNG THOÁT LUÂN HỒI
PHẦN 1-CON ĐƯỜNG THOÁT LUÂN HỒI
7 nhân, 7 quả, 7 diệt, 7 thoát
(7 Lý Luyện Tu)

7 NGUYÊN NHÂN SINH RA VÀ TỒN TẠI CON NGƯỜI TẠI THẾ GIỚI NÀY
Nguyên nhân 1-Sự hình thành và cấu tạo xác thể, linh hồn: Là cái sự Định.
Nguyên nhân 2-Sự tiến hóa của Vũ trụ ở trình độ con người: Là cái sự Hình.
Nguyên nhân 3-Sự tái sinh Linh hồn ở trái đất: Là cái sự Sinh.
Nguyên nhân 4- Sự nguyên cớ cụ thể tạo nên con người cụ thể: Kiếp nghiệp, nhân quả.
Nguyên nhân 5-Sự giáng thế: Nhiệm vụ Thượng Thiên giao phó.
Nguyên nhân 6-Linh hồn mật độ thấp: Tiến  lên người, như mộc, thú, thạch hồn…
Nguyên nhân 7-Linh hồn tiến hóa rồi, nhưng ở lại: Hỗ trợ nhân loại.

Nguyên nhân 1-Sự hình thành và cấu tạo xác thể, linh hồn: Là cái sự Định.
-Là do 9 loại khí chất Vũ trụ-Thượng đế tạo nên, thông qua 9 vị Bắc Đẩu, có cả thần khí và xác khí. Thần khí sinh ra Linh hồn gốc-tức vật chất siêu đẳng, Xác khí sinh ra xác thân-tức vật chất sơ đẳng.
-Đã qui định trong Thiên Kinh-Nhân Kinh.
-Con người sinh ra ở trần gian này, vốn là một cấp bậc tiến hóa của vật chất trong Vũ trụ, từ  trọc khí, đến đất, cây cỏ, cầm thú, con người, thần thánh tiên phật-thành tiên khí-hư vô chi khí hoàn về Thượng đế. Là hết một vòng chuyển luân tiến hóa.
Vậy, xét cả xác thể và linh hồn người tại thế này, tạm chia là hai phần thể xác đơn giản và siêu đẳng. Cái thể xác đơn giản là xác thân trần tục, nó vốn là trọc khí của cửu khí chất tạo thành, do Nguyên khí Vũ trụ tụ thành.
Chín loại khí chất này gồm: Khí chất: đen, xanh lá cây, xanh lam, chàm tía, hồng, đỏ, vàng. Là bảy loại trọc khí. Và hai loại thanh chất là trắng và tím. Chất khí trắng thuộc về Hư vô khí-hay là Trung Phương khí chất-hay là hạt Trung Phương-tức cái khí gốc của muôn loài muôn vật, ở cao tầng nhất của 9 cảnh giới, có mật độ hạ nguyên tử đặc nhất, nặng nhất, thanh nhất; và khí chất tím là khí Thực hữu khí-là khí tồn tại đẹp nhất của 9 loại khí, nó là khí Hợp nhất của 9 loại khí.
9 loại khí chất này tạo nên muôn vật, muôn hình tướng, muôn sự, là nhân, là gốc là quả của nhau, của Vũ trụ nói chung.
Thể xác con người đã có đủ 9 loại khí chất trên. Khí chất Tiên thiên là do Vũ trụ tạo thành thân xác ban đầu, nuôi dưỡng thân xác đó, gồm Nguyên Khí-tức Nguyên năng tạo nên thể xác mình-đó là các nguyên tử cấu thành thân xác đầu tiên khi mới sinh ra và Nguyên Hồn khí-tức là Linh hồn gốc chính đầu thai nhập vào xác thể để lại hồi luân hồi hiện kiếp. Cái gọi là con người bắt đầu được sinh ra này, nó vốn đã đang tuân theo Luật Luân hồi-Nhân quả rồi.
“Có thể xem Hà Đồ là vũ trụ- thiên đình-con người- linh hồn- sự vật...được cấu tạo bởi 5 vòng như sau:
-Trung tâm là một điểm: Thượng đế, sự sinh, ban đầu là Thái cực, lõi linh hồn-tiểu nguyên năng gốc-lương tâm….Trung tâm năng lượng Trung Phương trục Long Hoả.
-Vòng 2 gồm 4 điểm trắng không gian-thời gian, chỉ thế giới giác ngộ, Chân lý. Đây là 4 quan giám điện Vương quan-là tứ trụ Thiên triều-là Tứ tượng-là Thiên dương-Thiên âm-Thiên tướng-Thiên sát. Đây là lõi trong gần linh hồn…Đây là vật chất siêu đẳng. Trung tâm năng lượng: Bách hội Luân 7-Luân xa 6-Luân xa 5-luân xa 1.
-Vòng 3 gồm 2 dãy 5 điểm đen, tượng trưng cho sự cân bằng âm dương, là  không-10-0, là sự cân bằng của tứ trụ. Là trục năng lượng giữa thân người-Long hỏa.
-Vòng 4 chứa các số sinh 1, 2, 3, 4 dùng để chỉ phần vật chất ban đầu, tạo nên sự vật, vũ trụ, là tinh túy ban đầu-bắt đầu sinh ra. Ban đầu là vô hình vô ảnh-như tinh khí máu huyết, nguyên nhân…là nền tảng, cái gốc của vật chất hình thành hữu hình. Là Nguyên Thiên khí-huyệt-Khí tiên thiên-hậu thiên-năng lượng tạo nên và nuôi cơ thể-cái gốc của sự tồn tại nên sự vật, hiện tượng, con người, vũ trụ…đi với nó là thể vía.
-Vòng 5 chứa các số thành 6, 7, 8, 9 dùng để chỉ cái thế giới vật chất hữu hình, hình thành nên các sự vật hiện tượng. Nó còn là thể vía, thể phách ngoài cùng của con người. Là bát quái. Nó cũng là các tinh chất bẩm thụ nguyên khí của các vì sao, các mức năng lượng mà khi sống, sự vật con người nạp được; do đó nó sẽ bị mất đi, khi nguồn nguyên năng gốc hay là linh hồn rời bỏ nó- Là da thịt, máu, xương, và đi với nó là thể phách. Đây là vật chất sơ đẳng.
                                               (Trích Nguyên Lý Trung Phương).



Nguyên nhân 2-Sự tiến hóa của Vũ trụ ở trình độ con người.
Con người là một mô hình vật thể của Vũ trụ, nó tồn tại một cách đương nhiên trong tiến trình vận động của Vũ trụ-Do Thượng đế sáng tạo ra; hay nói chính xác là cấp tiến hóa của Thượng đế ở trình độ con người là chúng ta đang tồn tại!
Cho nên, coi như sự có con người là một tất yếu trong sợi dây Vũ trụ vậy. Nó là hằng hữu, hằng tồn. Tại sao, vì luôn luôn là như thế, các linh hồn muốn tiến hóa trở về thì phải đi qua cấp độ tiến hóa là Con Người này. Hết lớp linh hồn này, tiến hóa, hết làm người, tức hết luân hồi, thì lại có các lớp khác tiến hóa lên, cứ thế.
Nguyên nhân 3-Sự tái sinh Linh hồn ở trái đất:
-Linh hồn sinh tồn do tái kiếp theo luật Luân hồi Nhân quả-đây là đối tượng chủ yếu.
Nguyên nhân 4- Sự nguyên cớ cụ thể tạo nên con người cụ thể:
9 Loại khí nguyên tử chất này tạo ra con người, do con người đó được sinh ra theo Luật Nhân quả-Luân hồi, như sau:
-Con người phải trả nghiệp quả kiếp trước theo Luật Nhân quả-như đã biết gồm Luật Phản phục và Luật Phản hồi. Thực chất cũng là do cái Luật Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu mà thôi, có nghĩa, khi kiếp trước anh tạo ra chính sự tiến hóa của Linh hồn anh ở đẳng cấp nào, ứng với thể vía anh có, tồn tại trong Chuỗi lõi thông tin Linh hồn-thì đến khi đầu thai, theo Định luật Luân hồi Nhân quả, Linh hồn anh sẽ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu mà tìm đến chỗ tương ứng với anh để anh lại sinh ra-tức có số phận mới của anh. Anh trước có gì, thì nay anh có cái đó-nhưng ngược lại! Ví dụ-anh trước là người ác, cái tính ác nó lưu trong Linh hồn anh, ở dạng lưu trữ thông tin nguyên tử-đến nay, anh sẽ được đến cái chỗ có tính đó, và anh được sinh ra đúng vào cái thời điểm có nguyên khí ác xấu đó chiếu-hay còn gọi là sao ác chiếu, sau đó, nguyên khí này coi như là nguyên khí gốc của anh, sẽ khảo đảo anh-tức chi phối anh ở hai tính chất-lôi kéo anh ở mặt xác thể-làm cho cơ thể chịu ác đau, bệnh ác, yểu, bị đánh, bị đọa thân xác…và ở mặt tinh thần-anh ác, thì sẽ có lúc anh hành việc ác, anh gánh tội, bị trị tội-cao nhất là ăn cướp, giết người…tại trần, và lập tức anh bị tù đày, hoặc bị tử hình, lúc đó anh sám hối, đau khổ…đó là cực ác sinh thiện, nhưng cũng là bài học! Đây chính là cái thâm diệu sâu xa của Luật Luân hồi Nhân quả do Thượng đế sáng tạo ra! Đỉnh cao của đau khổ hiện kiếp, có thể làm anh sáng ngộ ra Chân lý, tìm đường tu luyện…Có thể rất nhiều kiếp anh cứ trầm luân trả quả như thế, nhưng đến một kiếp nào đó thì anh giác ngộ và có thể thành phật thánh!
Hình thể, thường đi với linh hồn, số phận là như vậy!
Nguyên nhân 5-Sự giáng thế:
Linh hồn sinh tồn do xuống thế đầu thai, theo nhiệm vụ, còn gọi là Linh căn giáng thế; loại này đầu thai để cứu giúp nhân loại, hỗ trợ tiến hóa.
Loại này cũng phải chịu qui luật vận hành của trái đất ở mật độ thấp, có nghĩa anh trước hết phải là một con người như bao người khác, có thể tố chất Thiên Lương và Linh hồn anh khác người thường, nhưng do anh bị “nhúng” vào mật độ thấp của cõi hồng trần-hay nói chính xác là anh phải đồng thanh tương ứng với trái đất, cùng sự tồn tại của loài người ở mật độ thấp, trong đó xác thân anh chính là sự nhúng của Linh hồn anh vào mật độ thấp-thì anh phải chịu sự tác động, khảo đảo của mật độ thấp. Anh bị nhiễm lậu trần gian, bụi hồng trần nó quấn lấy anh và anh bị đọa trần, mắc Nghiệp quả như người thường, và bị đọa kiếp luân hồi, không hồi về Nguyên gốc cũ, phải Luân hồi. Đây là Chuyện của 96 Ức Linh căn Nguyên thủy-do Cha Mẹ sinh ra, cho xuống trần giới đầu thai để giúp muôn loài tiến hóa, đồng thời cũng là học hỏi, nhưng đến nay Mất đường về! Là như vậy!
Các Linh hồn lớn của các Đấng Lâm phàm, thường giữ được Thiên Tính, có thể nhiễm lậu ít nhiều, nhưng do có Nguyên lý riêng theo số phận của họ, nên họ sẽ gặp được cơ duyên để giác ngộ sớm, rồi tu luyện, đắc đạo, rồi độ đời. Đó có thể là các bậc Giáo chủ, hiền triết, thiên tài, đạo sư, chân sư...Tại sao họ lại giữ được Thiên tính? Ấy là do số phận qui định, hay chính xác là mức năng lượng vượt trội có tính sáng của họ, tức là sự mã hóa năng lượng tạo thành số phận của họ khác người. Nhìn vào số Tử vi của họ, chúng ta sẽ hiểu được điều này, có thể đó là lá số của một người cực kỳ nghèo khổ, đau khổ đường đời, nhưng đường tiến hóa đạo hạnh thì rất rõ ở các sao chiếu có tính chất Thiên Lương.
Hóa thân trực tiếp của Thượng đế chiết linh trực tiếp ra, xuống thế; đây có thể là các Giáo chủ Ngôi Hai xuống trần dạy Đạo, xong các vị này cũng về Thiên Đường ngay, nhưng sẽ không hợp hòa vào Thượng đế, mà sẽ trở thành các Thượng đế nhỏ, tiếp tục đi quản trị các vùng của Vũ trụ, hoặc sáng tạo ra các Vũ trụ, Thiên hà, hành tinh mới.
Nguyên nhân 6-Linh hồn mật độ thấp lên, như mộc, thú, thạch hồn…
Đây là các linh hồn tiến hóa lần đầu ở Kiếp Người. Có thể rất ác, hoặc rất thiện, nhưng nhận thức về các định luật kém, tức không Minh triết, họ phải còn học hỏi nhiều để tiến hóa, đến Giác ngộ, từ Giác ngộ thấp, đến Siêu ngộ, rồi thoát luân hồi.
Loại hồn này là rất hạn chế Giác ngộ.
Nguyên nhân 7-Linh hồn tiến hóa rồi, nhưng ở lại hỗ trợ nhân loại:
Loại này có thể phân tính ra nhiều linh hồn để giáng sinh.
Loại này có thể nói là các Đấng lâm phàm cũng được, nhưng họ không có sứ mệnh Luân hồi, tức là khi mãn, họ được hồi về Nguyên hồn. Tất nhiên họ vẫn có thể bị nhiễm lậu, nhưng thường là khi mãn kiếp, họ về ngay với Gia đình hồn.
Kết luận: 7 Nguyên Nhân này, làm cho có sự có mặt và sự có mặt của con người trên trái đất này tồn tại-hợp lý-vốn dĩ tất yếu.

                       BẢY QUẢ PHẢI TRẢ CỦA CON NGƯỜI TẠI TRẦN THẾ
1-Quả nợ
2-Quả tham
3-Quả ác
4-Quả dâm
5-Quả bẩn
6-Quả vô minh
7-Quả mê dại
 (Nợ-Tham-Ác-Dâm-Bẩn-Vô-Mê)
1-Quả nợ:
Ai sinh ra chúng ta? Thượng đế. Vậy trước tiên chúng ta phải nợ Cha đẻ.
Nợ, mà vô minh, không biết, không thấy, hoặc biết, nhưng không làm theo Thượng đế…ấy là tội Chống Trời-nghiệp quả sẽ là nặng nhất. Giảng sai Chân lý làm cho người hiểu sai, ảnh hưởng đến tiến hóa, cũng tạo nghiệp. Chửi trời chửi đất, rủa bão rủa mưa, do vô minh mà ra, cũng tạo nên nghiệp. Trời cho sinh con, mà không dạy con hiểu về Trời, hoặc không dạy con thành người có ích cho chính nó, cho nhân loại nói chung, thì cũng là nợ Trời.
Sinh ra ở đời, mà không biết Thượng đế, không biết đường tinh tấn xã hội, cải tạo bản thân theo đường Chính Đạo…ấy là Vô Đạo.
Hay chưa đến bậc Toàn giác, thì còn phải học; ấy là Nghiệp Quả Nợ Trời.
Ở trần, có cha mẹ trần gian, sinh ra mình, ấy là Nghiệp Quả nợ công Sinh Thành.
2-Quả tham dùng: Là con người, thì phải tồn tại theo cơ chế sinh hóa, còn ăn, mặc, ở, tức là lấy của trái đất và lấy của nhau, để tồn tại; chứ bản thân linh hồn anh không sản sinh ra vật chất khác anh được. Quả dùng sinh cần và sinh tham- ăn, uống, mặc, hưởng các dục vật chất cho cơ thể sống được. Tạo ra Nghiệp Tham các dục.
Dùng nhiều, hay ít, tham hay không tham, thì cũng là lấy của trái đất hay Vũ trụ các vật chất, hay là anh phải chiếm dụng vật chất năng lượng Vũ trụ để tồn tại, là tất yếu. Không ai tránh được điều này, dù chỉ có uống nước mà sống. Muốn chiếm, dùng, thì anh phải tiến hành các việc như lao động, sản xuất, cống hiến xã hội, ăn trộm ăn cướp, lừa đảo, các kế sinh nhai….
Trong các việc ấy, làm anh tạo nên nghiệp, kể cả anh tác động vào trái đất-như cày xới, làm cho trái đất khô kiệt nguyên khí, thậm chí phá nguyên khí, xáo trộn khí mạch đất đai, dời sông chuyển núi, chặn dòng, làm đường, đào bới, phá núi, khai thác tài nguyên….tất cả làm anh tạo Nghiệp-quả-phá Tự nhiên.
Các việc chiếm dụng bất chính với người, làm anh nợ quả, tạo nghiệp ác, Nghiệp chiếm vật dục.
Vay mượn không trả, hay được người khác giúp, nuôi, hay cho…tất cả tạo quả, chứ đừng tưởng người ta cho mình mà mình không nợ người ta-Cho người quá, làm người hư, cũng tạo quả; cho đồ bẩn, đồ dơ, đồ bệnh, cũng tạo quả…ở đây mới tính đến là Vô tình, vô tư thôi. Đó là Nghiệp nợ Phúc người.
Ăn mặc, dùng của người, mà không lao động sản xuất, chỉ xin, chứ không cho, chỉ biết nhận, chứ không biết trả, đó là quả Vay-cũng tạo nên Nghiệp Vay.
Dùng hình tướng, tạo ra hình tướng không hợp vị, hoặc tạo ra hình tướng loạn-ví dụ cố tình làm ra quá nhiều vật dụng, kích thích tiêu dùng, đưa con người vào đường mê tiêu dùng, đọa vào đường ăn, uống, nghiện ngập…đó cũng là nghiệp dùng-tức tạo Nghiệp kích mê dục.
Vì con người còn tại trần, thì còn cầu vọng: Mong lành, mong thành, mong no ấm, mong thọ, mong lớn, mong thành đạo, mong có công quả…rồi về ác cầu có mong người ta chết mình hưởng lợi, đánh phá kẻ thù để mong cho nó chết nhanh, mong con vật lớn để nhanh làm thịt, mong chiếm cứ làm của riêng… Theo Luật Phản phục, thì anh mong tốt, đôi khi cái ác nó đánh anh ngay, anh mong cái thiện, thì cái ác nó diệt anh, và ngược lại, cho nên đều làm cho Lún vào Nghiệp trả cả. Tất nhiên theo hai hướng thiện nghiệp và ác nghiệp khác nhau. Nếu anh mong quá, quá mong, sốt sắng, sốt ruột, vội vàng, thành Huyễn vọng, duy ý chí, dốt nát vội vàng nhiệt tình thành phá hoại vậy! Tất cả cái đó đều tạo ra Nghiệp Vọng cầu.
3-Quả ác, sát:
Giết hại chúng sinh nói chung.
Kích động thù hận, chiến tranh, giết chúng sinh; nghiệp ăn mặn-tức là ăn thịt-hưởng cảm giác sung sướng trên cái đau của sinh vật khác, mà nỗi đau nào về thể xác của chúng sinh cũng như nhau thôi-ví dụ cắt cổ con vật, thì nó cũng đau như con người bị cắt cổ vậy, bẻ cách chặt chân nó, thì cũng như người bị bẻ tay chặt chân vậy thôi, chẳng qua con vật nó không nói được cái thứ tiếng làm cho con người hiểu là nó đau, nhưng có khi mới có ý định giết nó, nó đã ứa nước mắt ra, vì nó có Linh giác chả khác gì con người, thậm chí còn siêu giác hơn!
Làm ra các việc ác, để mục tiêu là hại người về sinh mạng, sức khỏe, danh dự, tuổi thọ, sự bình ổn hạnh phúc, sự tồn tại đương nhiên-vì mọi con người sinh ra đều có quyền bình đẳng về tồn tại, hưởng thụ và tiến hóa như nhau; các linh hồn hoàn toàn bình đẳng về sự tồn tại của chính linh hồn đó, trong cấu thành Vũ trụ, nhân loại. Anh đẩy họ đi, chiếm của họ, giết họ, hãm họ, hại họ……
Lừa đảo, buôn gian bán lậu, bóc lột, đố kỵ tranh dành, hồ đồ, vu oan giáng họa, hãm hại hiền tài…Chửi rủa, thị phi, gian phi, láo lếu, hỗn hào, cường bạo…Cố tình bảo vệ cái sai, cái cũ, chống cơ luật vận hành Vũ trụ; mưu sâu độc hiểm, xảo trá độc địa, xảo ngôn…Hận thù, nóng giận. Khinh người nghèo khổ, hư dốt, bỏ chúng sinh tội lỗi vô minh, thấy ác không chặn, thấy thiện không theo, còn hại thiện, hại lành, hoặc dửng dưng để tội ác, cái hư dốt xấu xa hoành hành, là bất thiện. Đã là giác ngộ Chân Thiện Mỹ, thì biết bảo vệ, giữ gìn, nếu để cái xấu chiếm lấy, thì là mất thiện, tức là thành ác vậy! Tất nhiên, đấu tranh lại cái xấu, là biết dùng cái thiện mà cải ác, thì có công quả; nếu quá, thì lại thành ác. Làm cho muôn sự tiến hóa, thì đó là công quả tốt nhất. Ngược lại tiến hóa, là ác.
Tất cả đều trái Luật Vũ trụ-Đạo Trời. Đó là Nghiệp Ác.
4-Quả dâm:
Trước nhất là Hành dục: Tinh huyết, tinh trùng, đều là linh hồn các đẳng vật chất cả, xuất nó, diệt nó, hại nó và hại cả mình; dâm nhiều diệt nhiều tinh trùng, khí huyết, suy nguyên khí mình, tạo chấn động hình tư tưởng dâm phóng chiếu vào không gian…
Dâm gian, dâm dục quá đáng, gian tình, gian ý, gian hồn dâm, cướp vợ chồng người, sinh hoạt tình dục trước hôn nhân, là chiếm xác hồn bất chính.
Tất cả tạo ra Nghiệp dâm.
5-Quả bẩn:
Ăn bẩn, ở bẩn, người bẩn, tâm bẩn, làm cho xung quanh môi trường bẩn, làm cho người khác bẩn; ăn ở không gọn gàng sạch sẽ ngăn nắp, có thể tạo ra lối sống hỗn loạn, thiếu nghiêm túc, không thể nói là Thành Đạo. Xung quanh mình bẩn, thì ảnh hưởng nguyên khí của mình, không thể nói là thân sạch. Cho nên, sự bẩn ảnh hưởng đến thể xác, làm bệnh tật, ô nhiễm nguyên khí chính khí của mình, lại tạo ra tư tưởng nhiễm khí bẩn, hình bẩn vào đầu óc tư tưởng. Có bệnh tật xấu, hôi, ghẻ lở không chịu chữa, cố tình làm người khác chịu chung…
Đó là Nghiệp thân bẩn.
6-Quả vô minh:
Vô minh có nghĩa là không sáng, có nghĩa là dốt, lười nhác, không chịu học hành cầu tiến bộ.
Dốt nát, ngu tối, hoặc cố tình đã biết mà cố tránh sáng. Người ta cứu mình, nói tốt, cố tình chống báng, không nghe; không chịu hướng sáng, mà cứ hướng tối; thích nghe lời ngu dại, ghét lời khuyên đúng; thấy lành thiện thì ghanh ghen, đố kỵ, tỵ nạnh, đôi khi chưa cần tranh dành, bon chen.
Báng bổ chư thiên, chống phá tâm linh tốt, huyễn ngã khinh thường, dương danh cao ngạo, ngụy tạo giá ngôi, thích ngồi ghế thượng, đức thấp đạo bượng, sống sượng giảng rao, mũ áo cào cào, bán rao thánh chúa…
Làm sai không sửa, sám hối tránh xa, múa mép ba toa, lấc cấc khoa trương, đón đường vô lại…
Không biết, không hiểu, không rõ, không thấy, trì độn mông muội.
Ấy là Nghiệp Vô Minh.
7-Quả mê dại:
Mê muội vào đường đen tối, si mê vào các thú vui thể xác, tinh thần, nghiện ngập các thức, thú, hình, ý si dại, đen tối, không thoát tối.
Khờ dại tạo quả ác, khờ khạo, mông lung vô ý sáng, mê mẩn không thấy tư tưởng hoặc con đường lành thiện, cảm giác sáng, thiện…Chú ý là, đôi khi con người bị đọa vào đường mê dại này mà không tự biết, tự làm, đôi khi bị thôi miên, bị mê lú, hoặc bị bệnh thần kinh, nghiện ngập; họ chỉ hại họ, không hại ai, nên không tạo nghiệp ác, mà tạo Nghiệp mê lú.
Tất cả cá quả này còn, mà không sửa, không sám hối, không tìm cách cân bằng Nghiệp quả, thì không thoát được Luân hồi.
7 quả có khi là Nhân, lại là Nghiệp, rồi thành quả, rồi quả lại thành Nhân của kiếp sau, phần sau, cứ thế đọa con người ta vào vòng Nghiệp chướng luân hồi không dứt.
Các quả này hình thành qua Tứ vị:  hành-khẩu-ý-phóng.
1-Hành là hành động, hành vi của con người, có tính hành động-tạo ra nghiệp, tốt hoặc xấu.
2-Khẩu: là lời nói tạo ra nghiệp.
3-Ý: ý nghĩ, tư tưởng, vì tạo hình tư tưởng, thành vía đen, tạo ra nghiệp.
4-Phóng: là phóng xuất vía-hồn khi đã tiến hóa, biết xuất Ngươn hồn đi trong coi vô hình, đến các nơi xấu xa, thấy các việc xấu bất thiện, phóng chiếu vào nơi xấu với tâm xấu, thì cũng làm thể vía xấu đi; thậm chí chữa bệnh từ thiện cho người, bị tà khí, ám khí, vong ác đọa, trấn, chiếm xâm vào hồn mình, đều tạo nên nghiệp xấu, chứ đừng tưởng làm điều tốt mà đã có lợi cho linh hồn; làm điều tốt, nhưng biết qui luật, hiểu cơ luật, biết chỉnh trị sửa sang cái xấu, lại biết bảo vệ mình, để mình tiến hóa, bảo trọng thân, tâm, linh hồn mình, thì mới gọi la Biết Đạo vậy!
Phóng xuất được hồn mà làm điều tà bậy, thì cũng tạo quả xấu, lúc ấy hồn ngoài thân, nên hồn chịu quả về sau.


    
                                                       7 DIỆT
1-Diệt nợ
2-Diệt tham
3-Diệt ác
4-Diệt sai
5-Diệt trần
6-Diệt vía
7-Diệt ngã.
 (Nợ, Tham, Ác, Sai, Trần, Vía, Ngã).
Con đường diệt quả độc-là con đường sám hối, tu luyện thân tâm và cân bằng nghiệp quả, theo lời Cha dạy là: Công phu-Công quả-Công trình-là Tam Luyện:
-Công phu là tu luyện Huyền công-hay gọi là Luyện Đạo.
-Công quả là phải trả công Trời đất, Thiên, địa, nhân, phổ độ, phổ giáo, lập công lập thế, cứu khổ cứu kiếp. Đó là Luyện Đức.
-Công trình là lập thế, thế nghiệp, hành đạo, xây đời, lấy Đạo trị thế, thi hành đạo là lập Luật Trời tại thế, xây nền Thánh Đức muôn năm-ấy là Luyện Đời.
Như thế, 7 diệt phải có Tam Luyện, mới thành công.
1-Diệt nợ:
-Kính thờ Cha Mẹ, làm theo Đạo Trời, hòa nhập cùng Cha, thấy được Chân Lý Tối thượng, biết Chủ nhân ông là Linh hồn mình, là Tiểu năng tiểu hồn, biết cách hòa nhập vào Cha, thành Cha, không phân ranh giới với Cha, hoàn nguyên là diệt cách xa, diệt bỏ vô minh, ngu đạo, làm cho Cha Mẹ vui, là báo ơn Hiếu Thiên.
-Trả công sinh thành cho cha mẹ trần như Hiếu-Kính-Ơn-Phụng-cũng là cách tôn kính Thượng đế, vì suy cho cùng, cha mẹ trần vốn dĩ thay mặt Thượng đế ở trần gian mà tạo tác ra bản thân xác trần, số nghiệp mình, vậy báo ân cha mẹ trần là hiếu với Thượng đế; tìm cách để cha mẹ trần biết được Chân lý, là công quả cao nhất của trả ơn, báo ơn Hiếu trần.
-Xây dựng xã hội Thánh Đức tức là xây nền đức để tu đạo-tức là xây cái điều kiện để tu luyện cho đắc đạo, chính là thực hiện Chính Pháp Thiên Đạo, tức là diệt được quả nợ Nghiệp quả của cả loài người trong Thế hệ tại hiện kiếp, rồi sau đó cho các lớp kiếp của các lớp người khác.
-Đắc phúc của người, thì trả phúc cho họ, hoặc cho người khác, lộc bất tận hưởng, phúc bất trùng lai; chớ dùng độc hưởng, chớ tránh chối công, chớ phản công, phản phúc. Người ta giúp mình, mà khinh khi, khó dễ, ban tính công ơn, thì ta cho lại, trả lại, âm thầm mà trả, để cân bằng nghiệp vay. Dùng vật của người, không trả vật, thì trả tình, trả ý tốt, ban rải tình thương mến, cho khí tốt, truyền lời nguyện tốt, hạnh tốt, làm cho người sáng đạo, khuyên điều thiện lành, cũng là cách trả công hữu ích. Vay của ai, thì phải trả bằng hết, chớ để oán cừu; cho ai cái gì, thì thật tâm thật ý thật tình, cho bát cơm cà, mà thật lòng thương mến, còn hơn cho cả nồi vàng bạc, mà khí dễ khinh người…
2-Diệt tham:
-Biết đủ dùng để sống, công bình, an lạc, các hạnh nghiệp đều có, khi không tham các dục, có thì dùng, không chiếm, không phạm, không khích, không tranh dành, gian láo. Làm đủ ăn, ăn đủ sống, sống công bình, bình thiên hạ.
-Diệt tham dùng, thì tất yếu cũng tránh được nghiệp phá tự nhiên; dùng cái gì của tự nhiên, thì phải bù lại, cấy lại, bồi đắp lại; không phá trụi, không đốt tan, không phá tàn, không tận diệt. Biết cân bằng Nguyên địa khí, bồi đắp Nguyên địa khí, sống Hợp Thiên địa-ấy là không tạo Nghiệp phá tự nhiên.
-Chớ ham hình tướng giả tạo bên ngoài, rồi loạn động tâm tính, thích cái dở, cái giả, cái huyễn hoặc, sa vào hình tướng, huyễn ngã, ngã mạn, mất cái bản ngã riêng, vọng động ra ngoài, không thu tâm được, thì bất tịnh tâm. Càng giản dị, càng sáng trong; lúc nào cực động sẽ thành tịnh, nhưng là Tịnh Thanh như Cha vậy, chứ không là Tịnh trọc. Hướng nội, tất bỏ được loạn tâm, hướng thanh, thì bỏ được loạn kích dục. Phải tiêu dùng ít, nói ít, cầu ít, vọng ít, hành động ít; xã hội Thánh Đức lúc động nhất là lao động, lễ hội, thanh tịnh nhất là lúc ăn và tu thiền. Xã hội Thánh Đức là xã hội sống chậm, thanh cao, giản dị và vô cùng văn minh, đầy đủ-chứ không thừa mứa vật chất.
-Diệt vọng cầu cực đoan, vọng cầu xấu, dùng ý xấu; nếu biết xuất hồn, vía, truyền khí, thì phá các hình tư tưởng xấu của mình, vây quanh mình-tức là Cải tạo nội-ngoại vía trong Thiên Pháp. Dùng lời khuyên tốt cho người, phổ giáo thanh cao thánh thiện để cân bằng nghiệp.
-Riêng vấn đề diệt tham dục, ác dục gây nên nghiệp, do sinh hoạt tình dục mà diệt chết tinh trùng…thì phải cố gắng hạn chế Nghiệp này bằng cách chế dục, chứ không cấm tình dục-vì đó là một cách tồn tại, một cách học hỏi, tất yếu. Nhưng phải phóng sinh, ăn chay, độ đời, trồng cấy, để muôn sự sinh sôi ra, rồi tìm cách hợp các Linh hồn của các Tinh trùng này, hóa hợp chúng vào Tổng hồn Thượng đế, hoặc cho chúng vào Nguyên khí chung, Nguyên Khí hồn đất, cây cối, hay Trái đất…thì hóa giải được Nghiệp ác dục gây ra.
3-Diệt ác, gian:
-Không nghĩ ác, làm ác; nếu có nghĩ, thì sám hối, diệt hình tư tưởng.
-Làm ác thì phải sám hối, rồi dùng đức bù đắp lại, có công quả, phóng sinh, ăn chay, từ thiện, độ đời để cân bằng quả.
4-Diệt sai:
-Vì con người ta luôn luôn có phát triển tự do, nếu không đưa vào riềng mối xã hội, tổ chức, qui định hành vi, thì dễ nhiễm lậu, nên phải làm đúng 9 Điều Không Phạm của Thiên Pháp, 9 Điều Cấm của Thiên Đạo, đó là Đạo trị Đời-thì diệt được các hành động sai. Đó là:

                                    9 ĐIỀU KHÔNG CỦA NGƯỜI HỌC THIÊN PHÁP:
1-Không  bỏ: Tôn-thờ Vua Cha Thượng đế    
2-Không chiếm: Của cải, tài danh, hạnh phúc của người khác.
3-Không tham: Danh lợi, vật dục tầm thường.
4-Không nói: Gian dối, xảo ngôn, ác ý, hồ đồ.
5-Không quên: Người nghèo khổ, hư dốt.
6-Không gây: Hận thù, chiến tranh, giết hại chúng sinh.
7-Không ở: Bẩn thỉu và phá hại môi trường.
8-Không nghiện: Các chất kích thích nặng.
9-Không ngừng: Xây dựng Thiên đường Hạ giới.

                      9 ĐIỀU CẤM CỦA NGƯỜI THIÊN ĐẠO THÁNH ĐỨC:
1-Cấm giết người.
2-Cấm bỏ vợ chồng.
3-Cấm mê tín.
4-Cấm mê muội.
5-Cấm nghèo đói.
6-Cấm bảo thủ.
7-Cấm tham ô.
8- Cấm cúng mặn.
9- Cấm bỏ luyện Pháp.
Làm được đủ 18 điều trên, là đã có nền tảng Đạo-Đức, bỏ được nghiệp, chuyển nghiệp, thành Đạo. Tránh các ác nghiệp, có đủ Công Phu-Công quả-Công Trình.
5-Diệt trọc.
-Là diệt cái ô trọc trần tục bẩn thỉu ở đời, ô trọc bản thân mình.
-Đạo Phật là đạo tiến hóa nhất từ trước đến lúc Thiên Đạo ra đời, tính về mặt tu luyện để thoát Luân hồi, thì căn cứ vào Lục căn, Lục trần, Lục thức để tiến hành tu luyện.
“ Lục căn gồm có:
-Nhãn là mắt, dùng để nhìn.
-Nhĩ là tai, dùng để nghe.
-Tỷ là mũi, dùng để ngửi.
-Thiệt là lưỡi, dùng để nếm.
-Thân là da bọc thân người, dùng để nhận biết những cảm giác như nóng, lạnh..
-Ý là tư tưởng, dùng để phân biệt.
Lục trần:
-Sắc: là màu sắc, hình dáng.
-Thanh: là âm thanh phát ra.
-Hương: là mùi vị.
-Vị: là chất vị do lưỡi nếm được.
-Xúc: là cảm giác như cứng, mềm, nóng, lạnh.
-Pháp: là những hình ảnh, màu sắc, hương vị được lưu lại từ 5 trần ở trên.
Lục thức gồm: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức  và Ý thức. Tất cả những chủng tử của nghiệp từ nhiều đời trong quá khứ cộng với biết bao nhân duyên để tạo thành con người trong hiện tại mà nhà Phật gọi là Ngũ uẩn. Ngũ uẩn thì có sắc uẩn thuộc về phần thân xác và thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn thì thuộc về phần tâm thức. Vậy ý nghĩa nó thế nào?
-Sắc: là thân xác của con người.
-Thọ: là những cảm giác vui khổ của thân và tâm.
-Tưởng: là nhớ lại những hình ảnh vui khổ của thân và tâm .
-Hành: là những sự biến chuyển thay đổi của tâm niệm.
-Thức: là sự hiểu biết phân biệt để tạo thành cái biết ở trong tâm” (Sưu tầm).
Theo đạo Phật, thì do Lục căn đòi hỏi, Lục trần tác động, nên hình thành Lục thức, và Lục thức tạo nên Nghiệp quả; muốn dứt Luân hồi thì phải bỏ Tam độc là Tham-Sân-Si, cả thân-khẩu-ý đều tạo nên Nghiệp quả. Đây là cách tu luyện Tâm sạch, xả nghiệp bằng tâm, tuy Phật không nói gì về hình tư tưởng, hay về hồn vía, xuất hồn.
Muốn thoát các Nghiệp, thì thoát trần, nên Chính Pháp của Phật là thoát trần, để tu luyện, từ bỏ trần tục để thoát tục-đó là chính yếu nhất của đạo Phật.
-Rõ ràng, đây chỉ là một biện pháp mà thôi.
Chúng ta khác, vì xác định Nhân loại tồn tại kế tiếp muôn năm, nên Chính Pháp là xây đời Lập thế, lấy Đạo trị Đời, tu Huyền công thoát xác, đắc Đạo ngay tại thế, linh hồn đã là thần tiên phật tại thế rồi, nên trần gian đã thành Niết bàn tại thế.
                 Chúng ta tiếp thu lại điều tu luyện này, mở rộng như sau:
-Tu Thiên Pháp, tịnh tâm, đến trình độ Khai Long Hỏa, xuất Linh hồn, tịnh hồn trên cao, thì làm chủ hoàn toàn Lục căn-lúc này đã thành Phật rồi! Luyện Kim thân, Kim hồn, thì xác thân, hồn bất hoại, dù có tác động gì cũng vô hại, vô nhiễm. Đắc Lục thông thì thành Phật Tiên Thánh, thì có thể làm chủ Lục trần, thậm chí cải tạo, làm ra Lục trần theo cách của mình, cải tạo thế giới xung quanh mình, như khí, vía, ánh sáng, môi trường, thời tiết…Không bị lụy vào Lục trần. Vì chúng ta phấn đấu thành Toàn giác, Toàn tri, nên muôn muôn năm vẫn phải học hỏi, và không chủ trương bế khóa các cảm giác thật-không bế khóa các Linh giác của Linh hồn-Con người. Hòa nhập Vũ trụ nhưng không đánh mất cái cá thể bản ngã, cho nên chúng ta luôn Mở rộng Hiểu biết, bằng cách học hỏi không ngừng cả ở Hạ giới, Trung, Thượng giới, cho nên không diệt Lục thức mà Chuyển Thức-lên một bình diện nhận thức cao hơn, thanh sáng hơn-ví dụ đau khổ-đau khổ vì chúng sinh mê lầm là cái đau khổ của Thượng đế, không còn là đau khổ cá nhân; si mê cái thanh cao, si mê giải thoát, là cái si mê của Phật. Nhưng chúng ta nhìn thẳng vào cái tối, cái đen ám, cái xấu xa để nhận diện nó, rồi chán nó, sợ nó, hạn chế nó, diệt nó, là bậc nhận thức Toàn giác của Thiên Đạo. Không né tránh đời trần, mà cải tạo trần gian, lấy thân trị thế, đạo trị đời, ấy là Công quả, là Tham cầu vĩ đại nhất của Tiên vị. Tu siêu đẳng rồi, thành thần tiên tại thế, mà không thoát trần, độ cho trần,  ấy là Thần tại thế; có xác phàm, sống thọ ích, thọ tiên, đắc đạo ngay tại nhà, ở trần trọc như ở trên Trời, ấy là Thiên Đường thế gian, không gì bằng!
6-Diệt vía.
-Vì thể vía làm ra Nghiệp, thì phải Diệt Vía. Tức là đốt hình tư tưởng và các hình khí ám muội quanh Hồn mình, bằng Huyền công thượng thặng.
-Đốt trọc khí bằng cách ăn chay, thanh tịnh tư tưởng, sống thanh, sạch, giản dị…và luyện Thiên Pháp, để đốt Khí trọc-thể Phách của cơ thể là đốt trọc khí, không có cách gì hay hơn là tu luyện Huyền công Thiên Pháp, phá hình tư tưởng khi nó mới thành hình và ban rải tình thương vô điều kiện cho chúng sinh, cả kẻ thù, kẻ chống mình, đó là Không vay, Không đắp, Không lấy, Không cho thêm Nghiệp ác vậy!
7-Diệt ngã.
Tu siêu đẳng rồi, xuất hồn cao rồi, đôi khi gặp Ngã, Huyễn vọng, mắc Huyễn vọng, tức là coi mình là oai, giỏi rồi, đã thành Phật, Thánh,Tiên…rồi, cao lắm rồi, không muốn học nữa, không muốn làm gì nữa, không định hình cái gì nữa, hoặc mong về Trời cho sớm, mong thoát khỏi trần gian cho sớm…Đó là Vọng Huyễn. Tất mang Nghiệp Huyễn, bị đày lại cho biết đường Huyễn là thế nào. Mà đến lúc  đó, tâm bất vọng cầu Huyễn, phải giản dị Nhập thế hoàn toàn, xem xung quanh mình đều là thần thánh cả, như nhau cả, phải sống-tu-luyện-tồn tại một cách bình thường. Bình thản, an nhiên tự tại, coi mình là cỏ cây hoa lá, như khí, như vật, như ánh sáng, lại như bóng tối, nay là khí, mai là người, ngày kia là vật, giản dị như thế, không vọng cái gì cao quá, hãy là chính mình, trở lại chính cái Chân tâm của mình, là Tiểu hồn trong cái vi diệu Cao Minh, là bậc Chân nhân, nhưng không ai biết mình là Chân Nhân, thì đó mới là Đắc đạo Chân tu.
*7 bậc Diệt này, là diệt các Nghiệp của các kiếp trước, hiện kiếp, thì mới có thể thoát Luân hồi được, chứ mới Diệt các thứ này, mà chưa biết cách diệt các Chấn nghiệp còn rơi rớt trong Không gian, trường khí Vũ trụ-trên Phông tâm linh, thì chưa thể diệt được hết nghiệp, phải xuất hồn đi mà gom lại, mà diệt hóa, mà làm công quả, tu luyện bù vào, cho đến khi thấy hết thì thôi. Tự mình làm, không ai giúp mình được, muốn thế phải đắc Thất Thông.

                                                    7 THOÁT
1-Thoát độc
2-Thoát kinh
3-Thoát ám
4-Thoát xác
5-Thoát tục
6-Thoát phàm
7-Thoát lụy
(Độc, Kinh, Ám, Xác, Tục, Phàm, Lụy).
1-Thoát độc:
-Diệt, bỏ được 7 loại quả độc trên, thì thân tâm đã an lạc, vui hưởng trần thế, tịnh thiền, thì về lúc nào cũng được siêu thăng rồi.
-Nhớ là Diệt dần 7 quả, mới bỏ dứt được nó, bỏ nó hàng ngày. Bỏ bằng cách sám hối, giữ vững nghiệp lành, bỏ nghiệp dữ, cân bằng nghiệp thường xuyên.
-Thoát xong 7 quả trên, cơ bản đã thoát Luân hồi. Nhưng chưa chắc, vì anh có khi còn Nợ, thoát, nhưng còn nợ vì đôi khi, anh xuống trần, để lập công quả, thực hiện sứ mệnh, mà sứ mệnh chưa tốt, thì chưa hồi cựu vị vậy!
-Thoát khổ, mà không bỏ trần đời tục lụy, ấy mới là đắc đạo-tức là An lạc thông.
2-Thoát kinh:
-Tu luyện đến trình độ thông linh, thì hết kinh sợ ma tà quỉ ám, sợ cái hư vô mênh mông, tiến lên làm chủ bản thân và Vũ trụ, tự nhiên, ngoại cảnh; hiểu được Cơ luật Trời, tất hiểu Đạo. Ấy là thoát được vô minh, vô linh, không còn vô minh kinh sợ, mà thấy gần với Thượng đế, thần thánh, quỉ ma, giao hòa với mọi bí mật, bí hiểm của Vũ trụ, tự nhiên, tất Minh triết mà làm cao sáng linh hồn mình. Còn sợ Trời, quỉ ma, thì không thể nói là Giác ngộ. Sợ Trời không bằng sợ mình, chính mình là Trời thu nhỏ, biết mình mới biết Trời. Khi mình chưa hòa được vào Trời, thì đó mới là chưa đạt đạo, ấy mới là đáng sợ. Sợ Thượng đế thì không thể thành Thượng đế được. Mà sợ mình sẽ không tiến hóa bằng Thượng đế. Mình còn ngu tối, thì cái phần Thượng đế trong mình còn ngu tối vậy, vậy thì phải biết sợ cái ngu tối đó, đến khi hết sợ-làm thế nào để hết sợ thực sự? Không ngoài sự học hỏi không ngừng để tiến hóa!
Được chứng ngộ tâm linh, có thể được Chư thiên chỉ dạy, là cách để học hỏi là biết đường và biết cảnh, bậc của mình. Tức là Đắc Thông linh-Giác ngộ.
3-Thoát ám:
Thoát các sự ám xấu, vía ám.
Tu luyện thân tâm bằng thoát 7 quả độc, đồng thời tu Huyền công đến trình độ thoát hồn, thông Long hỏa, thì đa phần các Nghiệp bám ở thể vía đều tan, trọc khí tan rã, vía độc ám, bị đốt hết; thấy linh hồn mình xuất ra đã thanh sáng, có hào quang vô lượng, sáng trong, tinh khiết, bay lên rất cao tận các Cung Trời, thấy không còn thể vía trọc bu bám quanh lõi linh hồn, phân hồn ra, biết chiết hồn ra để nhận thức, hợp hồn lại để hóa hiện…Kiểm tra xem có còn Nghiệp nào chưa trả hết, thấy cái cân Nghiệp Quả đã cân bằng chưa, nếu cân bằng, thì đó là đã thoát được Vía ám, Nghiệp Quả, tất thoát luân hồi.
4-Thoát xác:
Ăn chay, tịnh luyện linh hồn, xuất vía, xuất hồn lên đến Thượng giới, vào đến Trình Cha, ấy là Thoát Luân hồi. Đi về trên Trung, Thượng giới, là linh hồn ngự tại xác trần tạm rõ, thì là phật thánh tại thế, tiên tại trần. Đó là tiến hóa cao nhất tại trần.
5-Thoát tục:
Đến lúc già, sắp mãn, phải vào am tu thiền tĩnh, xả bỏ trần ai, các dục đời, thanh tịnh hoàn toàn trước khi nhập diệt, ấy là cách để thoát dây trần tục một cách hữu ích trong thời Thánh Đức. Làm lễ cắt dây trần tục trước khi mãn kiếp.
6-Thoát phàm:
Phu bì, xác thể còn đòi hỏi vật dục, thì khó thoát Luân hồi, vậy, trước khi mãn kiếp, hầu như thoát phàm phu-tức là hạn chế tối đa các dục mà không thèm, không cần; điều này có vẻ khó khăn, nhưng đến lúc loài người tu Huyền công siêu đẳng, có thể nhịn ăn rất lâu. Hoặc ăn rất ít, mà cơ thể thành Kim thân, Kim hồn, trước khi xuất xác, đốt tan hết các trọc khí vây quanh hồn mình, đốt cháy thân tàn, rồi xuất lên khỏi xác, tất thoát Luân hồi.
7-Thoát lụy:
-Dửng dưng với cái chết, bình thản, đón nhận tự nhiên, vui mừng đắc quả để trở về.
-Không bi, không lụy, không đau, không tiếc trần khi mãn.
-Người nhà không khóc than.
-Không chôn thân xác phàm, chỉ được hỏa táng, không dùng yểm đảo thư phù, ám niệm, bỏ các thứ huyền môn tà thuật trong tang chế, thì linh hồn tất mãn.
-Linh hồn sau khi xuất khỏi kiếp, thì không nhiễm cầu vọng nữa, như thích dùng các thức vật chất trần gian, tiếc nuối các việc trần gian, ngạo vọng huyễn ngã được người trần thỉnh nguyện, thích nhập đồng, rao giảng nếu đúng không có sứ mệnh hoặc không được các Hội đồng tâm linh, Vua Cha, Mẫu Vương, Thánh Vương  cho phép. Tiếp tục học hỏi, vào các Hội đồng, các Gia đình hồn để tu luyện, tiến hóa, theo sự phân công của Bề trên.

                                        TÁM PHÉP TINH TẤN

Phàm ở đời, đã là con người, sống đời bình dị, nguyên nghĩa sống đời, thì tất không thể tránh được hành sự đời, mà có hành có làm, thì có đúng sai, hay dở, thất bại, thành công.
Lại nữa, đã là con người, trước tiên thì phải có xác thân, với đủ ô trược của xác thân, rồi xác thân ô trược, làm cho linh hồn ô trược; vậy rồi cứ trượt mãi, không thấy về, không về được.
Nay đã có 7 Nhân, 7 Quả, 7 Diệt, 7 Thoát (7 Lý Luyện Tu)-nhưng Ta chưa dạy về cách nhìn nhận mình và mọi sự thế nào. Làm sao cho Tinh Tấn Linh hồn mình, mà không phạm sai lầm, tránh bớt được sai lầm, ấy là rất quan trọng, vì mỗi lần sai, là một lần gánh nghiệp, lại phải gánh, sám hối, sửa chữa-nhưng sai lầm ít thì tốt hơn!
Đây là 8 Bí phép cho mỗi người tại trần. Muốn thực hiện được 7 Nhân, 7 Quả, 7 Diệt, 7 Thoát, thì phải thực hành Tám Phép Tinh tấn này mới được, coi đó là Phương tiện để chở 7 Lý Luyện Tu trên. Ví rằng, 7 Lý Luyện tu như cái bảng, thì 8 Phép Tinh tấn như cái thước chỉ vậy.
                                                              *   *   *
-Đối với bản thân mình-tức là nhìn nhận cái bản lai diện mục của mình-soi vào mình-thì theo 8 Điều qui sau: Thực-Cực-Chính-Dung-Hợp-Dùng-Kiên-Tịnh.
                                                    1-Thực:
-Nhìn thẳng vào mình, đánh giá thực chất điểm tốt, xấu, hay, dở của bản thân mình-nhìn đúng cái Bản ngã của mình có cái gì, chớ né tránh, chớ bảo thủ, bao biện cho chính mình. Phải đánh giá được Thống nhất-Toàn diện các điểm. Đánh giá chúng trong mối liên hệ lẫn nhau, cùng tồn tại, cùng ảnh hưởng nhau; bản chất của sự ảnh hưởng-tồn tại của chúng là gì? Tức là đi tìm Nguyên nhân của sự tồn tại đó. Không thấy được nguyên nhân, thì không tiến hóa được.
( Phép này là soi bản thể mình, như soi gương, trắng đen, xấu tốt phải nhìn thấy được; nếu không thấy được, thì soi ra ngoài, rồi soi lại mình, hoặc tự mình hình dung mình là người khác nhìn vào mình mà đánh giá-tức là khách quan đánh giá-sẽ thấy cái của mình, nó giống ai, khác ai cái gì-phép này áp dụng Nguyên lý Sự thống nhất của Vũ trụ-sự vật hiện tượng).
                                                         2-Cực:
-Trong các điểm tốt, xấu, hay, dở do mình đã nhìn thấy, thì hãy đánh giá chúng, đến mức nào-tức cực điểm nhỏ nhất, cao nhất của một cái tốt, hoặc xấu-từ đó đánh giá được tình trạng, tính chất, và mức độ của sự việc, tính cách đó. Phải đánh giá được Cụ thể-Triệt để từng điểm.
( Phép này cốt để thấy mình đang đứng ở chỗ nào trong nấc thang tiến hóa, trong có có đạo đức, nhân cách, tu luyện, lao động, cống hiến…).
                                                          3-Chính:
-Tìm điểm chính quan trọng nhất của cái tốt nhất và cái xấu nhất-tức là hai điểm cực đối nghịch nhau cơ bản nhất của một vấn đề-hoặc tổng thể tình trạng-hoặc tổng thể sự tồn tại. Các phần nhỏ khác, bị chi phối ở hai điểm này, sẽ bị ảnh hưởng theo hướng tốt, hoặc xấu theo. Phải phân được ranh giới giữa chúng.
( Phép này ứng dụng nguyên lý Âm-Dương-hai cực, để tìm ra bản chất-mâu thuẫn quan trọng-chủ yếu-bản chất thực  của sự vật hiện tượng-từ đó điều chỉnh).
                                                          4-Dung:
-Tìm cách Dung hòa các điểm-tức là tìm được sự tất yếu tồn tại của chúng và nhìn chúng với cách nhìn giản dị-bình hòa-tránh cực đoan. Phải sám hối các tính xấu-sửa các điểm kém thường xuyên; đây cũng là phép cân bằng Tương đối, để cân bằng trạng thái, mức năng lượng, nghiệp…
( Phép này ứng dụng Phép này ứng dụng qui luật Âm-Dương cùng tồn tại các mặt, thống nhất các mặt mâu thuẫn…để dung hòa chúng, coi chúng là sự đan xen, liên hệ, cảm ứng lẫn nhau-đây loại bỏ tính cực đoan, nóng vội, tùy tiện, chủ quan, duy ý chí, cảm tính, đơn giản, máy móc một chiều…Phép này tránh cho ta cái nhìn phiến diện, chủ quan, một chiều, gây sự ác ý, ác tâm, hoặc thù nghịch, thành kiến. Đem lại cho chúng ta sự hòa hợp, đoàn kết, tôn trọng cả cái xấu, cái hư, dốt, lạc hậu, kém phát triển. Không mất bình tĩnh, nóng vội, gây nghiệp xấu.
Đó là cái nhìn Trung Dung. Trên cao nhìn xuống, đứng ngoài nhìn vào, ở giữa nhìn ra xung quanh, an nhiên tĩnh trí để nhìn bao quát, có chiều sâu, có chiều rộng, toàn diện, là chính nó của các mặt, lại là Trung tính sau đó, mới có thể hòa hợp được. Có được phép này, thì hầu như không thấy ghét cái gì, dù cái đó rất là hại, rất là xấu-vì thấy được cái tồn tại của nó và chúng ta nhìn thấy được sự Dung hòa trong đó).
                                                        5-Hợp:
-Thấy cái Hợp lý để cho sự yên ổn, hoặc thúc đẩy tiến bộ.
-Cái hợp lý là gì? Đó là cái điều hợp qui luật tiến hóa, thậm chí tạm thời có thể là cả biện pháp xấu, cực đoan-nhưng nó lại là cần thiết cho sự của mình-nếu không có nó thì mình hỏng luôn-chứ đừng nói đến tồn tại để học ở trường đời nữa! Nó là mặt tối-phía bên kia của Tiến hóa chính-nhưng nó lại là điều kiện để cho sự tiến hóa được bảo đảm…Cái gì thấy hợp lý thì phải dùng.
(Ví dụ? Rất nhiều-sinh hoạt tình dục có thể gây nghiệp, cản trở thoát Luân hồi-nhưng là yếu tố sinh lý rất quan trọng, nếu không có thì không có con, không có loài người-không có hạnh phúc gia đình-mà đã chấp nhận đời-đạo, thì phải có gia đình, nếu mất hạnh phúc, ngoại tình, loạn đời…
Hoặc: Ăn mặn. Người đang rất gầy yếu, ốm bệnh, cần bồi bổ, hoặc trẻ em đang lớn, không thể cho nó ăn chay trường được, nếu không thì chết, chả còn ở trần mà tiến hóa đến đích cuối nữa, thế thì phải ăn mặn, cho đến khi nào thích hợp thì ăn chay.
Tính xấu như nóng giận, nó là kém, biết là thế, nhưng do Trời sinh ra mình, có sao chiếu nóng tính, khó sửa, thuộc về tính cách bẩm sinh-biết thế, nếu bỏ ngay, thì rất khó, vì phải nín nhịn, ậm ực, rồi tím lịm hận trong đầu, hoặc lại ra chặt phá cây cho hả giận…Vậy thì tạm chấp nhận nó, rồi sửa dần; lấy cái tốt, như tính cam chịu, chịu khó làm việc, tính chịu khổ…để bù lại, xâm chiếm tính nóng-vì cái tính chịu khó, vốn là do  nhẫn nhịn chịu đựng mà có, thế thì nhân nó lên, lấn sang cái tính nóng, sẽ có lúc chế được nóng…
Cái nhà đang xây, nhưng nếu ta vội giật cái cột xuống ngay, cái nhà sẽ sập lập tức, trong khi ta chưa thể xây ngay một lúc cái nhà mới được. Hoặc mọi việc khác cũng thế, như văn hóa, tín ngưỡng, kinh tế…Cái nào thấy chưa thể bỏ được, bỏ ngay sẽ gây hậu quả lớn, tệ hại, gây nghiệp lớn…thì phải xem nó là cần thiết tồn tại, từ từ rồi tính).
Phép này ứng dụng qui luật Âm-Dương cùng tồn tại các mặt, thống nhất các mặt mâu thuẫn).
                                                      6-Dùng:
-Lựa dùng cái thích hợp đó. Tức là cái mình cần, cái thấy cần thiết. Có thể cả tốt và xấu.
-Nhưng theo qui luật, thì dùng cái tốt là đương nhiên; cái xấu có dùng, cũng chỉ là tạm thời. Ví dụ phân gio rất bẩn, nhưng cần dùng cho việc trồng cấy. Người cứng đầu, ta dùng vào việc cần sự mạnh mẽ, kiên trì, quyết đoán; tính nói nhiều, ta dùng vào việc nói nhiều…Biến cái xấu, thành cái tốt; hóa giải nó thành lực cớ lợi.
-Dùng cái tốt-biến nó thành động lực, cái nhân sáng, để nhân lên, lấn át cái xấu đi.
(Phép này ứng dụng Luật Nhân quả, phản phục-cái nào cần động, cái nào cần tịnh, cái nào cần lùi, bỏ, diệt, sửa. ..)
                                                       7-Kiên:
-Phải Kiên trì tiến bộ, hoàn thiện.
-Khi  mình đã xác định được biện pháp rồi, tức nhận thấy cái nào cần cho mình, để mình tiến hóa, thì dùng, dùng thì phải kiên trì, nhưng dùng để tiến hóa-chứ không phải để thụt lùi. Kiên trì sửa sai. Thường xuyên sám hối các tội, lỗi, yếu, hạn chế. Sám hối rồi, thì phải kiên trì-kiên tâm-kiên quyết sửa chữa; cứ như thế, không ngừng, cho đến khi hoàn thiện.
* Trong Kiên, sử dụng 8 phép nhỏ-gọi là Tám phép độ thân: Tách-Chiếu-Nhẫn-Thái-Phải-Cải-Hòa-Công.
-Tách: Bóc tách các nội dung, các phần của một sự vật, vấn đề ra, để mổ xẻ chúng. Trong các vấn đề lớn, sự vật, hiện tượng, tính cách, bệnh tật..thì bóc cho được nó ra cho thấy nội hàm của nó, có bóc nó ra, mới diệt được nó-đây không phải là lúc dung hòa nữa-đã qua giai đoạn dung hòa.
-Chiếu: Dùng cái sáng, cái hay, cái tốt, cái chung chiếu nó, biến hóa nó, làm biến dị nó đi, cho không là nó nữa. Dùng dư luận cải hóa nó-chiếu yêu-soi nó, để cải hóa, nhưng là chiếu sáng, bằng năng lượng cao hơn.
-Nhẫn: Là nhẫn nhịn, kiên nhẫn, nhẫn nại. Trong Kiên phải có Nhẫn. Nhẫn nại mà thực hành.
-Thái: Là thái bình. Trong mọi hành động, cho mình, cho người, lấy Thái bình-tức là an bình, an vui, hòa bình làm đầu tiên. Tức là không gây hậu quả xấu.
-Phải: Là Đường chân chính, đường đúng, biện pháp đúng-cứ theo đường này mà làm, thì không sợ lạc lối.
-Cải: Là cải tạo rõ ràng. Trên là Chiếu sáng, cũng đã là cải hóa rồi, nhưng có khi chưa thành việc, thành sự, thì Cải này phải thành sự, nghiêm túc, cho được, thành quả tốt rõ ràng.
-Hòa:-là Hòa đồng. Thành cái tốt rồi, đôi khi mắc vào việc kỳ thị, khinh miệt, hoặc đối đầu luôn với cái cũ, cái xấu, cái chống mình; cho nên lại gây ra Nghiệp tiếp. Vậy phải hòa đồng với tất cả-hòa đồng nhưng không đánh mất mình, hòa hợp nhưng không mất bản sắc riêng, hòa vui nhưng không sa vào huyễn loạn.
-Công: Là công quả, công trình. Làm gì cũng phải nghĩ đến công quả, công trình-tiến hóa chung, không vị tư ích kỷ mới là đắc phúc, đạo. Anh tiến hóa, tiến bộ rồi, tức anh đã có thể tiến hành phổ độ, mà anh không phổ độ, không chịu vị nhân, cống hiến, thì cũng chỉ được cho riêng anh thôi-tức là mới có Công phu, chưa có Công quả, Công trình.
( Phép này ứng dụng qui luật Nhân quả, Phản hồi, Phản lực-liên tục để chuyển hóa sự vật hiện tượng. Trong Kiên này, diễn ra vô cùng sinh động, đa dạng, lâu dài các quá trình, các giai đoạn, các hành động, các hệ quả…thành trụ-dị-hoại-diệt-sinh…theo nấc thang tiến hóa, hành hóa).

                                                 8-Tịnh

-Tịnh là Tịnh không.
-Tìm cách Trung hòa chúng-tức là Cân bằng giá trị-năng lượng-nghiệp…Cân chúng với nhau lên, lấy cái nọ đắp-thâm nhập cái kia-xem còn chỗ nào mà không bù trừ cho nhau được, không xâm chiếm nhau được. Cái phần dôi ra-tức là Mâu thuẫn chưa thể hóa giải được. Lại tìm cách đưa chúng vào để trung hòa tiếp, cho đến hết, cân bằng thì thôi.
-Tịnh lọc lại mọi việc, cho Tịnh-về Không. Thiền Tịnh. Việc này đắc An nhiên-Tự tại-Vô hại-Vô Nhiễm sự. Đắc Đạo.
( Phép này cốt đưa mình về trạng thái trung tính, trung cung, bỏ Huyễn ngã, chấp ngã hoàn toàn -trong tịnh thiền, luyện khí, phong thủy, hay bất cứ việc gì cũng thế-phải tìm cách đưa mình về trạng thái Trung tính-Trung hòa-Trung cung-Trung Phương tính trạng=Không. Nếu chưa làm được điều này, thì tất còn nghiêng lệch, mà nghiêng lệch, tất có nhân-quả-nghiệp, dù tốt-xấu. Ở trang thái Trung Phương, thì mới đắc đạo cho mọi sự vật, hiện tượng, con người-vì đó là Thượng đế Cung-Thượng đế Tính).
Trong mọi vấn đề nói chung của con người tại trần gian, đều phải ứng dụng và có thể ứng dụng rộng 8 Phép này ra cho muôn sự khác đều được.

                    THOÁT LUÂN HỒI SINH TỬ CỦA THIÊN ĐẠO
                      ( Thực hành Thiên Pháp- phần Lý luận tu tâm tính)
(Cẩm nang -thuộc về Bạch Ngọc Thiên Đạo Pháp, Trung Phương Thiên Đạo Pháp).


                                            
1-Đọc và luyện Trung Phương Thiên Đạo Pháp, Bạch Ngọc Thiên Đạo Pháp để hiểu bản chất con đường về Trung tâm Vũ trụ.
Trung Phương Thiên Đạo Pháp, Bạch Ngọc Thiên Đạo Pháp là phương pháp độ của Thượng đế cho những linh hồn lựa chọn con đường về Thượng giới nhanh chóng nhất, khoa học hoàn toàn. Và hoàn toàn có thể khuyến khích những Linh hồn chọn lựa cách trở về Tự giác-Nếu thấy cần thiết, để trở về Thượng giới, hoàn tất quá trình Luân hồi của mình.
-Nhưng lưu ý, các Linh căn cao cấp thệ nguyện xuống Trần lập đời Mới, kẻ nào cố tình trở về mà không có công quả, không khác đi chợ về tay không, xuống ruộng rồi về tay không với cái liềm, có khi mặt mũi lem nhem hơn xưa, tất bị phạt!
Bạch Ngọc Thiên Đạo Pháp là Pháp phần Thứ 6 của Huyền Pháp Thiên Đạo
( Thiên Pháp cấp 6-cùng với Thánh Đức Thiên Đạo Pháp là Pháp phần Thứ 5) độ rỗi Linh hồn về Cựu vị quê hương.
 Còn lại các học viên Thiên Pháp nhanh chóng tu đến trình độ Xuất hồn, hoặc thấp nhất phải khai xong Long Hỏa, xuất ý thiền sâu tại Sao 7, hoặc Đan điền để hòa nhập rung động Mật độ cao-đến cấp 7-8-9-thậm chí 12, để giữ nguyên bản mệnh và không bị sóng Vũ trụ-từ trường phá nát bản thể. Tức cũng là tỉnh táo hoàn toàn, trong khi người thường có thể bị hôn mê, ngất đi!
2-Bản chất của Thoát Luân hồi:
-Bản chất của Luân hồi đã viết trong các phần Kinh.
-Nói thêm: về Khoa học Lượng tử, đó là sự bu bám các trường năng lượng thể vía xung quanh Linh hồn gốc, cái năng lượng bu bám đó, thực chất là các hệ thống thông tin xấu, bao gồm các tư tưởng của mình, các mảng tư tưởng-vía của người khác-do mình thù hận, do người thù hận mình-vay-trả-nợ nhau qua bao đời, kiếp…nó làm Lõm hoặc Lồi cái phần Linh quang gốc của mình. Nhưng sâu sa hơn, là do các Linh hồn khi hạ mức rung động để thích ứng với mật độ đậm đặc của cõi Hồng trần này, đã bị “nhúng” vào mật độ thấp hơn, bị “đặc” lại-do cả việc đời sống ô trọc của cõi Hồng trần, khi Linh hồn mang xác phàm Hồng trần.
Thông qua các kiếp, tạo nghiệp, nghiệp là các trường thông tin lưu giữ trong không gian thể hình tư tưởng và giữ vào thể vía của linh hồn. Khi đầu thai trở lại, anh ta phải thích ứng với cái tần số cũng như cái gọi là Nghiệp quả-thực chất là sự Đồng thanh tương ứng-ứng với khớp hợp của mức năng lượng anh có, để tạo ra một Định lực năng lượng Vũ trụ được số hóa, theo qui luật phù hợp với cuộc đời của anh, đó chính là số phận.
Như vậy, việc cởi bỏ các trường năng lượng mật độ thấp bu bám quanh linh quang gốc, triệt để bỏ các nguyên lý thể vía và trường năng lượng tiêu cực do anh tạo ra trước đó-chính là các hình tư tưởng và tư tưởng của anh-đó chính là việc thoát khỏi qui luật Luân hồi.
Khi nào thì thoát Luân hồi? Khi linh hồn chỉ còn lại phần Linh quang gốc xưa kia. Làm thế nào để bỏ các phần rác bu xung quanh linh hồn gốc và rác của anh trong không gian?
1-Một là: Thiền tịnh, làm giảm sóng não để phá bỏ phiền muộn, đưa trạng thái tư tưởng-hay nói chính xác là mức rung động của linh hồn anh đến mức nhỏ nhất đối với thể xác-nhưng nó lại là mức rung động của nguyên tử linh hồn lên mức cao-tức sóng rung động cao hơn. Mục đích của Thiền cũng là giảm Nghiệp thôi-tức xả tâm trọc.
Tác dụng thứ hai của Thiền là do làm giảm rung động trọc, nâng rung động tinh, sóng não giảm đến mức Hạ âm-tức rung động của mức Nguyên tử-thì anh bắt đầu tiếp thu được các tín hiệu đồng thanh tương ứng với mật độ này-chính là sóng và mức năng lượng vi tế của cõi Vô hình-hay là Thế giới tâm linh.
Tác dụng thứ ba của Thiền là: Do tác dụng giảm rung động về sóng Hạ âm-thì đồng thời cũng làm hoạt hóa mức năng lượng vi tế của cơ thể xuống-Vì Linh hồn quyết định mức năng lượng này-tức làm cho hệ thống Tiên thiên khí-hay khí Nguyên năng gốc của cơ thể giảm xuống, mức rung động của các nguyên tử tế bào tăng lên, sẽ làm giảm bệnh tật. Đây chính là lý do là khi thiền, thì đã chữa được các loại bệnh, trong đó có cả bệnh ung thư.
Tóm lại: Thiền sẽ làm giảm thể trọc của Linh hồn-hay làm giảm thể vía và cả thể phách của cơ thể.
Tác dụng thứ tư của Thiền chính là: Giải thoát. Vì tịnh tâm là xả bỏ, rồi tự giải khổ-tức giải thoát cho mình khỏi phiền não-địa ngục tâm trí và cuộc đời.
                          
                              Tựu trung về mặt tiến hóa-Giải thoát:
Ấn Giáo khai trí thần thông, Thiền hòa nhập Đại bản thể, là pháp nền cho mọi pháp về sau, các Thánh nhân xuất chúng về Trời rất nhiều. Nhưng không hoàn toàn.
Phật giáo Nguyên thủy đạt đến trình độ Thiền này. Vô Ngã để hoàn Đại Ngã=Không. Nhưng không hoàn toàn.
 Phật giáo Đại thừa phá chấp nhập đời, có sư giết chim ăn, uống rượu, tu thiền, vẫn đắc đạo-ấy là phá chấp mà hòa nhập đời-Nhưng không hoàn toàn.
Mật Tông cao hơn-nhập đời mà tu, luyện xuất hồn. Nhưng Mật Tông dùng chỉ chú, ấn tín tức dùng tha lực của cõi vô hình nhiều, lên bị động-không chủ động. Ngoài ra họ không xác định được Nguyên lý của Linh hồn, lên coi thường khái niệm Linh hồn-nên sai về cảnh giới, tức không về được Thượng giới cùng Cha. Nên không hoàn toàn.
Tiên đạo xuất hồn dạo chơi học hỏi, đã có nhiều vị về đến Thiên thượng.
Vô Vi pháp, khai nhãn pháp các loại…là để học hỏi. Phái Vô Vi cũng có khá nhiều người xuất hồn, nhưng đắc đạo Thiên Đạo thì ít. Nên không hoàn toàn.
Nhân Điện khai Luân xa là xong, thiền thì như đạo Phật, nên mức tiến hóa hòa nhập cao hơn Phật gia một chút. Nên không hoàn toàn.
Các tôn giáo Tây phương, chỉ cúng bái, đọc kinh, không thiền không công khí, không khai nhãn, thì giải thoát rất ít. Nên không hoàn toàn.
Về đạo đức nói chung, các pháp môn, tôn giáo tựu chung là khuyên răn con người làm lành, lánh ác, cải tà qui chính. Nhưng nguyên nhân về mặt xã hội-tức cái gốc của cái ác, thì không có Lý luận xã hội cởi bỏ nó. Đến nay Thiên Đạo là Vương đạo trị thế, Đạo trị Đời, mới hoàn toàn giải thoát về mặt xã hội. Xã hội quyết định cá nhân, nền tảng quyết định mọi thứ của nó-ấy là xã hội. Chính Pháp của chúng ta là Chính Pháp giải thoát!
Về tiến hóa linh hồn, thì các con đã biết, các Pháp phần Thiên Pháp và lời dạy đều độ cho các con về Chính Vị Thượng đế, có cách tu luyện để có phương tiện đi về tốt đẹp.
2-Hai là: Nâng cấp năng lượng của Linh hồn một cách tích cực:
Ngoài thiền ra, còn một cách nữa là: Khai phóng các trung tâm năng lượng liên quan đến Linh hồn-đó chính là các Luân xa! Trục năng lượng gốc của Linh hồn nương tựa chính là Long hỏa. Cho nên khai Luân xa, Long hỏa-mặc nhiên đã làm Linh hồn tiến hóa, đến khi đưa Hồn tịnh lên đầu-Bách Hội-theo một số môn phái đó là nhập cảnh Trí của Linh hồn, tức hòa nhập Thượng đế. Tức rung động ở Luân xa 7 làm mức rung  động thông với Đại Nguyên năng-nối theo sợi dây bạc. Nói như thế mới đúng 50%, còn thiếu! Bên Thông Thiên, Mật Tông, rồi cả các pháp Phật gia có tu thiền-đều cho đến trình độ nhập tịnh tại Luân xa 7 rồi tan loãng hòa vào Vũ trụ-chính là Niết bàn. Ta nói đó là một cảm giác tâm lý, về năng lượng thì chưa thể đến Niết bàn-tức hồi về Thượng giới-nhập với Thượng đế hoàn toàn. Điều này là sự thật, vì sự thiếu xót cũng như trình độ nhận thức, tinh tấn, bí hiểm, rồi khoa học tâm linh hạn chế của các pháp môn tôn giáo trước kia.
Tại sao chưa về đến Thượng giới? Rất đơn giản-như Lý luận trong Thiên Kinh đã nói: Do mức năng lượng hay nói cho đúng là sự sạch của Linh hồn gốc.
3-Ba là: Tu đến trình độ xuất hồn ( Ngươn thần) rồi, mà bay còn có trình độ cao hay thấp-bay đến cảnh giới-hay còn gọi là mật độ vật chất tầng nào, thì mãn sẽ về đến tầng đó. Bay đến Trung tâm Thiên hà, thì về đến Hội đồng Thiên hà, mới tạm gọi là thoát Luân hồi-nhưng chưa hoàn toàn! Bay đến Trung tâm Vũ trụ, về đến đó là hoàn toàn! Hết!
Bay lên cao, mà đau đầu, là anh có đến thế thôi, mức năng lượng thấp, loại vía đen, như đã nói, sợ cả ánh sáng, sợ bão tố, sóng từ trường bậc cao-đó là ma quỉ cấp thấp. Cha có nói trong đạo Cao Đài là: Nếu Ngươn thần trọc, ăn mặn, thì bay lên cao, sẽ bị lằn sét đánh tan! Là ở lý đó.
Cho nên, về mặt kỹ thuật của thoát Luân hồi chính là làm mọi cách loại bỏ cái vía xấu bu bám mà thôi!
Tam hoa tụ đỉnh-Ngũ khí triều Ngươn, luyện Thánh thai, xuất Thánh thai ( Ngươn thần) đắc vị ngôi Thần Thánh Tiên Phật-đó là cái Lý mà Cha đã dạy trong Đại thừa Chân kinh của Cao Đài đại đạo, hoàn toàn đúng.
Vấn đề cuối cùng là Pháp môn nào có cách dạy xuất Hồn siêu đẳng nhất, nhanh nhất, an toàn nhất và ngon lành nhất về đến Cha? Ngon lành là bay nhanh, không mỏi, không bị ách tắc, về một mạch! Xuyên qua Thiên hà, Hệ mặt trời, Vũ trụ, qua cả Lỗ đen, về Bạch Ngọc Thiên Đài-nơi Cha ngự.
Khi bay lên cao, các loại vía rác bị đánh tan hết, rơi rụng hết, tu đến cho nó rơi rụng tan loãng hết, thì về được với Cha! Với Thượng đế-không cần biết Thiện-Ác-Chính-Tà. Vì Cha là như thế. Nhưng điều cần nhất là Về đến Nhà! Điều này có vẻ thực dụng một chút-nhưng rõ ràng, suy đến cùng, thì anh nào về từ cái chợ lấm lem, mà về được đỉnh cao hơn, là anh ấy tiến hóa hơn. Cho nên, đôi khi Ta thấy, có Bồ tát xuống trần, độ thiện, diệt ác đến tan tành ra-tức Ngài ấy cũng rất ác, với Thượng đế, thì ông ta đang diễn sân khấu thôi, và về, cũng đã được đắc vị Phật! Nên nhớ-Phật-là một khái niệm thôi nhé-tức là một đấng đại giác ngộ.
Theo Ta được biết, đến giờ này, trên thế giới chưa có pháp tu nào đến trình độ đó, họ có học xuất hồn hoặc thông linh cùng Thượng đế-nhưng bản chất là khai Nhãn thần mà thôi, còn lại Huyền công siêu đẳng Tâm Linh tuyệt vời-tức Khai Hỏa Long, Luyện Nhãn, chứng năng linh-thần thông-xuất hồn về đến Thiên Thượng-thì trong lịch sử Nhân loại chưa có Pháp tu nào như Thiên Pháp.
Đáng tự hào mà tin tưởng, thầy cùng vài vị học viên khác đã quán nhãn và xuất hồn về đến Cha rồi! Chúng ta có cái hay là dùng Thần lực bản mệnh hợp nhất với 7 trung tâm thần lực hay là trung tâm năng lượng của Vũ trụ-trùng với thân mạng chúng ta-chính là 7 ngôi Bắc đẩu-Luân xa Vũ trụ và chúng ta! Cho nên, biểu tượng Thiên Linh Bắc đẩu Tinh phù ( Thiên Phù) là Một và là Đại Linh Ngã, Đại Khoa học, Đại Thần học cao diệu! Pháp chúng ta quán tưởng chính mình là Vũ trụ-Thượng đế. Chưa có Pháp nào quán tưởng cấp cảnh và Bản lai Diện mục chính xác cụ thể như chúng ta! Nên đến Bạch Ngọc Thiên Đạo Pháp, là phần độ cho các vị đã qua Thiên Pháp cấp 4-xuất được hồn, thì về rong chơi, thăm quê xưa-luyện Hoàn nguyên Hợp Nhất với Trung Phương Thiên Linh-tức đắc đạo hoàn toàn. Nên Bạch Ngọc Thiên Đạo Pháp là phần tinh túy nhất của Thiên Đạo.
Bốn là: Ban rải tình thương vô điều kiện cho muôn vật, con người. Vì năng lượng đó là năng lượng thanh khiết nhất của Trung cung-Thượng đế-cũng chính là năng lượng của linh hồn gốc của chúng ta. Khi chúng ta ban rải Huệ năng cho xung quanh, thì vừa là cải tạo tính trạng vật thể và các linh hồn xung quanh, vừa là cân bằng nghiệp xấu cũ của mình, vì mức năng lượng của mình sáng thanh hơn, đã đánh tan năng lượng cũ, đồng thời theo qui luật đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, khi mình nâng cao mình, thì năng lượng thấp không bu vào được nữa. Tức là Tôi đã khác, tôi không nhận cái cũ của tôi nữa! Đồng thời, tránh tạo thêm nghiệp ác.
Năm là: Phải Minh Triết.
Không Minh Triết hoàn toàn không về hợp Một Hoàn toàn được. Vì Vật tại Tâm-Tâm tại Vật-Vật là Tâm-Tâm chính Vật! Tức Hồn là Vật, Vật là Hồn. Hồn mà chưa hoàn toàn giống như Đại hồn, thì sao về đúng chỗ được! Nó phải có cái Trí của Thượng đế, không thể Vô Minh được. Xuất hồn thì có nhiều kẻ may mắn học xuất chơi được, có nhiều rồi, nhưng không Luyện Đạo, không nhồi Trí, thì biết Thượng đế ở đâu mà về? Bay đến đó thì thấy gì mà biết? Biết mà không hiểu thì cũng thừa. Hiểu mà không biết thì chỉ là hiểu xuông! Cho nên phải học Lý, thực Hành, có Kiểm nghiệm, rồi mới đắc Giác ngộ hoàn toàn. Có nhiều kẻ huệ nhãn tự nhiên có, như vô số các bà đồng ông bói, mà nói về cõi Vô hình, Khoa học mù tịt, chỉ nói láo phán xằng, mê tín dị đoan nhảm nhí. Có nhiều kẻ dùng Huệ nhãn kiếm ăn, dùng thần thông ác hại người…đó là Quỉ, ma hoặc tà bất chính-không bay đến đâu được, có chăng bay dưới cõi Trung giới này mà thôi, sao có thể cao quý Minh Triết mà thoát Luân hồi, về Cựu vị được.
Cộng chung: Thiền, giải thoát, có cả Chính Pháp xã hội-Khai Nhãn-nâng mức Năng lượng-Linh năng thông linh-Xuất hồn cao cấp-Yêu thương tất cả-Minh Triết hoàn toàn. 7 điều kiện cần và đủ. Đó là con đường về với Cha. Đó là Thiên Đạo.
Ghi chú hiểu và nhớ: Long Hỏa là Ta trong thể xác. Trâu Vàng là Ta trụ tại thế gian. Bạch Long là Ta trở về Trời. Thiên Phù là Ta hợp Một=Nhất=Thượng đế. Tượng Pháp của Thiên Pháp là Ta trong Trung cung bản thể ( Đan điền)-cũng là Thượng đế tự thân. Biểu tượng Trâu Vàng ( KIM NGƯU)  là biểu tượng cho Thánh Đức.

                                QUÁ TRÌNH CHƯNG CẤT TỪ BÃ:

Rất nhiều loại bã đen, lậu, xấu, hỗn tạp, nhưng khi ta chưng cất thì thành tinh ngọc hương-như rượu, hóa chất nước hoa v v….
Kỹ thuật chưng cất có khi dễ, có khi khó, nhưng nhất thiết phải trộn lẫn hỗn độn các nguyên liệu thô nhất, tạp nhất: Ví dụ sự ô trọc, sự thô mộc, sự bẩn thỉu, sự kinh tởm, sự đau khổ, sự bầm dập, sự oan trái, sự mất mát, sự tanh hôi, sự khốn nạn…Tất cả. Nếu không khổ, sẽ không biết nỗi khổ; không biết con đường thoát khổ. Muốn biết con đường, phải dẫm chân bằng chân đất trên con đường đó. Thương mình rồi mới có thể thương người được. Vì là kiếp khổ, thì mọi thứ khổ không nên phân chấp khổ. Đời là lầm lẫn và học hỏi, thì đừng chấp vào lầm lẫn và dốt nát, thối tha, mà chấp vào cái Ta chưa có để đi lên.
Chưng cất là quá trình luyện thân khổ nhục của kiếp người, để ăn đòn, để cay cực, để khao khát thoát khỏi con đường ấy, thoát khỏi cái lò ấy. Không kinh sợ  cái lò luyện ấy, vì nó là như thế và mãi mãi chúng sinh tiến hóa đến cấp này là như thế. Thế gian là cái bậc tiến hóa thôi, mãi mãi có thế gian. Kinh sợ nó thì bỏ nó sao? Không! Muôn năm sau có các cảnh giới Hồng trần như thế này dành cho chúng sinh ở mật độ tiến hóa đến cấp này. Vậy thì ai sẽ dám bước xuống ruộng sình lầy này để gặt mùa bội thu cho Thượng đế? Chính là các vị Phật, Bồ Tát, Thiên thần phát nguyện xuống trần, học trở lại, và khai sáng, dẫn dắt nhân gian. Ông ta xuống trần thì nhiễm trọc trần. Nhiều ông mê lầm không ngóc nổi đầu lên nữa, tức đọa trần! Có ông thì khổ rồi, thì tầm đạo, tu cao, đắc pháp, cứu thế. Pháp là thứ không phải là trên trời rơi ngay xuống, mà do vị ấy giác ngộ ra, do Trời dạy cho mở mắt ra thông qua chính cái số phận của ông ta. Nhân loại chỉ có mỗi Hồi giáo được Kinh Co-ran thôi, còn lại các vị giáo chủ đời đều bầm dập mà tu đến cấp đại giác cả.
Khi chưng thành tinh hương, thì chỉ còn lại bã ở dưới. Cái bã ấy có thể được dùng, hoặc không. Nay có kẻ chấp cái bã ấy, thì không là bã thì cũng khó thành hương…Hoặc chưa có hương mà chấp vào bã, được một mẩu hương mà chấp cả bãi bã.
Còn chấp vào các thứ khổ, bẩn, hay cảnh trí, đời sống, các căn cơ nhiễm trọc hoặc không trọc, tức còn tâm phân biệt, tức còn sinh cảm giác thù hận, cay nghiệt, khinh ghét, giả đạo đức…thì còn ác nghiệp hoặc thể vía xấu. Tức anh chưa trống không, tức không thoát Luân hồi, chưa Giải thoát.
Trong Con đường thoát Luân hồi của Thiên Đạo-không có chỗ nào chấp vào cảnh, sắc, hình, tướng, tính, số phận, hành vi vấp phải, thái độ thường chuyển, trí tưởng vãng sinh không là bản chất, chỉ có 7 điều quan trọng để Giải thoát, bất phân thiện ác, tà chính, xấu đẹp, nghiệp cao hay thấp, căn quả nặng nhẹ thế nào: Làm đủ 7 điều đó, tất thoát Luân hồi lạc lẻo. Số 7 là số thoát Luân hồi.
Vì xác định tất cả là giả tạm, nên Pháp Luân thường chuyển, không chấp vào tính trạng, chỉ chấp vào Hư Không để thành giải thoát. Đó là Vô Chấp.
Ở rìa ngoài của cái Mâm Đạo, cũng có thể nhảy vào giữa Mâm ngay, ở gần Mâm-tức đạo đức tốt, chưa chắc đã nhanh vào giữa Mâm hơn.
Muốn ăn nước nhiều từ nồi cá kho nhừ? Khó, để nhiều nước tất không nhừ, để ít nước thì khô khét mất. Nên đổ nước nhiều, nấu cho nhừ cá đi, cạn nước rồi, ta đổ nước vào đầy để có nước trong nồi như cá! Ta hay có thói quen gặp cuốn sách là lật trang cuối, đọc ngược lên, để thấy cái kết trước, mở sau. Đọc ngược có cái hay là Không chấp vào nội dung thứ tự mà chấp vào kết ý nghĩa, và giá trị của cuốn sách là gì, hay hoặc là dở biết ngay. Hay thì đọc, dở thì thì lướt qua mấy trang.
Đánh giá người từ lâu rồi, Ta có thói quen nhìn xem họ là người tốt, hay xấu, đời khổ hay không khổ, không chú ý nhiều đến việc họ làm gì, cao sang hay hèn hạ. Gặp ai cũng tự hỏi, họ có hạnh phúc hay không, có thương người hay không. Cho nên, các tác phẩm văn học, không đi vào cái Tôi đời mình mà toàn hướng ra ngoài, đến con người và đau với đời. Cái mà các nhà văn thời Mạt đã đánh mất bản chất chính của một văn nghệ sỹ đích thực!
Đó là Phá chấp đời để cho người giác ngộ Đạo hiểu Đời.
Tuy nhiên, vì xác định xây đời, lên chấp vào Đời mà luyện Đạo, cho nên, những tính thuộc phạm trù đời thì phải chấp, để cho cá nhân thường chuyển. Không chấp cá nhân, để tránh nghiệp cá nhân, muốn tổng thể các cá nhân thường chuyển, thì phải chấp trụ vào đời LÀNH THIỆN chung. Chấp bằng Luật, Lệ, để lấy Đời làm Đạo vậy. Cá nhân không nên chấp nhau=Vô Chấp, mà xã hội sẽ chấp cá nhân hay Tập thể chấp cá nhân, lấy Nghiệp lực Lớn chung thúc nghiệp cá nhân chuyển hóa. Đó là Hành phạt của Pháp luật, Phép luật, lợi ích cho nhiều người, có thể hy sinh mấy đứa chống Luật để làm gương muôn đời.

Người giác ngộ Thiên Đạo, tu luyện Thiên Pháp, phải hiểu ý nghĩa của Thiên Phù-đó là hình ảnh Thượng đế cũng là hình ảnh Thượng đế tự thân, tự mình là Thượng đế, hợp cùng Vũ trụ-Thượng đế-thì mới gọi là Giác ngộ Chân Lý. Kính Thượng đế-tức là cũng phải Kính Mình! Tôn thờ Cha, thì mình phải thực hành tâm linh và tu luyện đến thành hiểu mình là Thượng đế! Chứ không cứ tưởng thờ Thượng đế, cúi lạy Thượng đế, rao giảng Đức tin, mà cuối cùng thì chả giác ngộ được là bao về Luật Vũ trụ-Về Đạo Trời-Về chính mình, không nhận ra mình là ai, đi đâu, về đâu, từ đâu đến…thì có thờ Thượng đế muôn năm cũng không thành đạo, không thoát được Luân hồi, mà có khi ác vẫn hoàn ác, ngày càng thụt lùi, đọa sâu vào hố vô minh hơn trong các kiếp!
Cái tự thân Bản lai diện mục cổ của mình vốn là thần thánh gốc rồi, đó là Thượng đế tính, hay Linh hồn gốc, nó là Một, chưa bao giờ phân tách khỏi Một-Vũ trụ-Nhân loại. Khi nhận thức được cái Một ấy, cùng sự liên hệ tất yếu cùng muôn loài, thì phải hiểu trong ta có tất cả, là tất cả, cùng tất cả, hợp tất cả và hòa, sống vì tất cả, thuộc về tất cả, như tất cả-ấy mới là Thượng đế. Cái đau của mình cũng như cái đau của người, của đất đai cây cỏ, Thượng đế vậy; mình sáng thì xã hội sáng, Thượng đế sáng, không gian sáng và ngược lại! Nếu mình động, thì Vũ trụ cũng động theo, mình là ác, thì đã tạo một vi lượng ác ném vào không gian vô lượng hình ảnh, và năng lượng ác, rồi đến lúc nào đó nó quật ngược lại khảo đảo mình. Và ngược lại!
Trong bản thân xác thân-linh hồn-đã là một Vũ trụ-Thượng đế thu nhỏ hoàn thiện tuyệt đối! Từ Linh hồn Vũ trụ và xác thân Vũ trụ, có trong mình cả-có đủ 9 tầng cảnh giới-ứng với các cấp Nguyên tử trên cơ thể. Ta có thể đi trong cơ thể chính mình-xuất hồn đi vào-bơi trong cơ thể mình-như máy bay bay trong bầu trời vậy! Trong chúng ta, khi đắc đạo thần thông, cảnh giới 9 Thiên đường của chính mình ngay trên Vùng Trên Sao 7-Nê Hoàn Cung-hay Thiên Đường Thánh Nhân. Trên Nê hoàn cung nối thông theo cơ chế Thông suốt-Trục dọc- Điểm Không-Đồng Khí Đồng Thanh với Thượng đế-Thiên đình. Như thế, khi xuất được Ngươn thần hồn ra, thấy được Thiên Đường Thánh Nhân, là hiểu được Thượng đế, xuất lên cao dọc theo sợi dây bạc mà về với Cha, là về Thiên đình, vào được các cung là hiểu Cung đình Thiên Thượng, biết có Vua Trời; gặp được Cha, vào lõi Bạch Ngọc Cung-tức Trung tâm Vũ trụ-thì coi như Thoát luân hồi, khi mãn kiếp!
Với Con đường Thoát Luân hồi như trên là Hợp Định Luật tuần hoàn của Vũ trụ, con người tất yếu sẽ thoát được Luân hồi, sinh tử, hồi về Thượng giới, ngay hiện kiếp, hoặc rút nhanh, rút ngắn các nghiệp để ít luân hồi, nhanh về đến đích cuối.
                                                                                Ngày 9/5/2011

                                      NGÔI LỜI GIÁNG DẠY

Lời Ta đây, là Thiên Chúa giảng cho các con! Thông qua giáng điển vào Hạ phàm.
Các con chiên của Ta, con ngoan!
Ngày Chúa đến, phán xét chúng nhân
Hỡi đàn con Thiên Chúa đang mong thầm
Ngày Thiên Chúa giáng lâm lần nữa…
Nhưng Ta hỏi, ai cần Ta, nếu tanh hôi xác thân thế kia?
Ai đợi Ta, khi phân hóa Chánh-Tà thế kia?
Các tội lỗi chống Luật cũ lời Ta rao giảng xa xưa..
Các con mượn Đạo Ta mà gieo rắc chiến tranh, tàn diệt lẫn nhau. Ta đâu có dạy thế?
Ta dạy về phép hòa đồng, con người yêu thương nhau, mở rộng nước Chúa, bằng tình thương, chứ đâu có dạy các người mượn danh Ta để giết hại các con của Ta?
Ta dạy nhân loại là một nhà, chứ đâu có dạy các người mượn xác thân Ta để tế lễ cho quỉ ma, cho danh vọng tiền tài, cho thói phàm dâm ngu ác, cho tiếm chiếm quyền tự do của con người ở mọi nơi?
Các con có biết, tất cả các Giáo chủ, đều do Ta phân Tánh Linh của Ta cho xuống trần, lập đạo?
Các con có biết, thậm chí có Giáo chủ mượn xác xuống nhiều lần, để gieo nhiều pháp môn, tôn giáo cho Ta. Tức là họ là Chúa tể của các tôn giáo, là con Ta.
Tùy điều kiện, văn hóa, dân tộc, địa lý, mà Ta gieo phổ các lý lẽ tôn ti khác nhau, mà thành ra Tôn giáo khác nhau, để dạy các con Ta trở về với Ta.
Nhưng các con đâu có hiểu! Người chân chính thì không kỳ thị tôn giáo chân chính!
Các con đánh giết nhau vì tranh dành tín đồ, mạo báng nhau; phá nhau, tức là phá Ta, báng bổ nhau là báng bổ Ta.
Trong chuồng chiên của Ta, phải có nhiều loại cửa: Khổng, Lão, Nho, Phật, Chúa, Ấn, Hồi, Do Thái, Bhais…đủ 9 bộ Lớn, ấy là của Ta cả, muôn sự trong tay Ta, có việc gì nằm ngoài Ta đâu! Ta đã phải tự thân hạ thế, gieo phổ giáo lý Cao Đài tại Việt Nam, để có cơ qui Nhất, tạo nền Vương Đạo trị thế ở Thánh Địa mới của Nhân loại là Việt Nam, làm nền tảng cho Ngôi Hai nhập thế giáng ấn xây đời Mới.
Lũ chống Ta là lũ reo rắc chiến tranh, kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, ý thức hệ. Các con làm giống như Chúa nói: “Lạy Cha của con, chúng không biết chúng đang làm gì!”-thì đây, lũ ác gieo tàn ác, mà vẫn đang ca bài ca Thiên Chúa, ca bài Nhân đạo, Hòa bình! Cho nên thời Mạt tận, thời đại cuối cùng này, các con đâu còn phân biệt được đúng sai thiện ác, chính tà? Vì sao, vì tâm các con nhiễm tà gian lậu hoặc, đó là danh lợi, phàm ngã, huyễn ngọa, cho nên những thứ đó nó che mờ Minh triết-Tình thương của Linh hồn các con! Linh hồn các con khi Ta sinh ra, nó có Thiên Lương sáng láng, nó là Chúa Tự thân, là Ta trong tất cả! Nên hòa đồng, là tất cả. Vì Ta là tất cả. Các con không học, và quên mất điều này!
Này Ta hỏi, cộng sản vô thần, nhưng đó là Ta dạy phép Đại Đồng, dạy con đường giải phóng Nhân loại khỏi bất công, khổ đau, tội ác, đó là các con Ta đang học tinh thần của Ta! Rồi đỉnh cao của văn minh vật chất sẽ dẫn các con Ta đến với giác ngộ Tối Thượng Vũ trụ! Cộng sản là Nhân Đạo đó con!
Này Ta hỏi, Phật giáo học đi vào Vô Ngã, chứng ngộ Linh giác bản thân, hướng vào tịnh không, ấy là hướng vào Ta, về Ta. Chối bỏ Luân hồi, cầu giải thoát, là về Ta-Niết Bàn. Luân hồi là có thật, là cái Ta nghĩ ra để cho các con đặng học hỏi để trở về với Ta. Ai còn không tin có Luân hồi, Nhân quả, thì sau thành lại Linh hồn, sẽ biết Luật ấy mà thôi…
Này Ta hỏi, Đạo giáo hướng về Ngọc Hoàng Thượng đế, cầu lạy Tinh Quân Bắc đẩu, ấy chả phải là Ta và nơi Ta ngự sao? Họ cũng tu luyện thành tiên, xuất Ngươn thần hồi về Ta đó sao?
Ấn Giáo, Ta dạy Luân hồi, đầu thai, cảnh giới, siêu thoát, luyện phép Du-già siêu đẳng, đó là luyện cho hợp nhất cái Tiểu hồn của các con với cái Đại Hồn Ta đó thôi.
Thánh giáo, Ta dạy về Linh Thánh, về đấng Đại toàn Jehoval, cho Chúa xác thể xuống cứu rỗi các con, dạy về Linh hồn, Thiên Đường, sám hối, lấy thịt Ta ra mà răn lời và biết xác thân các con cũng là xác thân Ta vậy.
Phương Đông Ta dạy về Học thuyết Âm-Dương, đó chả đúng hay sao, khi từ Vũ trụ, Thiên Hà, cho đến muôn vật, điện tử, nguyên tử…đều có hai thuộc tính đối lập, chi phối, liên kết chuyển hóa lẫn nhau, tạo ra Ngẫu lực cho bánh xa tiến hóa, tồn tại của Ta.
Phương Tây, Ta dạy về Minh triết xã hội, lý luận các phạm trù triết học, đặng đưa các con về đến trình độ tiến hóa xã hội cao cấp, mà xa xưa thời Atlantic, Lemuria đã đạt được.
Các con đã biết quyền năng cao tột của Bắc đẩu Thất Tinh-Bảy ngọn đèn của Chúa Trời. Bảy Vị đại thiên thần này vốn là các con Ta, giao quản sinh mệnh muôn loài, muôn vật trong Vũ trụ. Ảnh hưởng đến mọi học thuyết Phương Đông, từ Chu Dịch, Bát quái, Hà đồ-Lạc Thư, đến Lục Nhâm, Tử Vi, Lỗ Ban, Phong thủy. Phật giảng Thất tinh Diên Mạng, thần chú Thất tinh, kính trọng Bắc Đẩu là kính trọng Ta vậy!
Phương Tây thì Bắc đẩu ảnh hưởng đến Kim Tự Tháp, đến Thiên văn, đến Chiêm tinh, phong thủy. 12 chi của văn hóa Phương Đông, đã là 12 cung-con vật tượng hình Linh giác Hoàng đạo của Phương Tây đó thôi.
Này các con, Thời đại Vàng sẽ đến, nhưng Chúa giáng lâm sẽ làm gì để dạy các ngươi về cái xã hội Vàng đó? Chả lẽ lại dạy các ngươi làm tàu ngầm, máy bay chiến đấu và bom hạt nhân chăng? Hay lại dạy các ngươi về sự chết đói mà dân Châu Phi đã trải qua, trong khi có đứa mỗi ngày thu hàng triệu đô la và ăn chơi thỏa thích, và máu chảy trên thùng dầu lửa, trong bao tiền đô-la? Lại dạy các ngươi ăn cho nhiều, hưởng cho lắm, để làm cạn kiệt mọi tài nguyên, biến trái đất thành thùng phân của rác rưởi, ô nhiễm và xác chết tanh hôi hay sao?
Không các con của Ta! Không bao giờ có chuyện đó nữa. Lời Ta nói là Thật!
Các con có biết, dân thời đại Lemuria, họ sống mấy trăm ngàn năm, rồi các giống dân siêu đẳng trước các con, họ sống như thế nào chăng? Hàng vạn năm trước, họ sống thanh tao, no ấm, Minh triết, thần thông, yêu kính thiên nhiên. Thế họ sống thế nào? Đó là thời kỳ mà Ta đã dạy các tôn giáo có là tên thời Thượng Ngươn Thánh Đức. Phương Đông gọi là Nghiêu Thuấn, triết học chung gọi là Cộng sản sơ khai. Công xã Cộng sản nguyên thủy. Ấy là khi không có giai cấp, giàu nghèo, chiến tranh…Vậy mà các con chống đối Lý tưởng Cộng sản sao? Chống lý tưởng ấy, là chống Luật của Ta vậy! Nhưng thời đại Mới, Ta cho tổ chức siêu đẳng hàng vạn vạn năm, với trình độ tiến hóa cao độ, để thành Xã hội Thần Thánh tại thế gian, gọi là Thánh Đức, hay gọi là Thiên Đường Thế gian, dưới sự cai trị của Ta, thông qua Thánh Minh, cai trị hàng triệu năm sắp tới. Thánh Minh Vương sẽ là Vua muôn đời của các Vua, Chúa muôn đời của các chúa.
Ta cho các con biết Bảy dấu hiệu của Ngôi Hai giáng thế:
1-Mình Thánh Linh của Ta, có đủ dấu hiệu Thiên Tử và Ngôi vị Thượng đế trên cao.
2-Trí tuệ của Ta, có đủ Minh triết-thần thông, dạy các con huyền phép để vào Thời đại Minh Triết-Giác Ngộ hoàn toàn.
3-Tình thương của Ta, có đủ Thiên Lương để yêu thương vô điều kiện con cái của Ta.
4-Quyền năng của Ta, có đủ dấu chỉ, ấn lệnh; các Thánh thần đã giáng sinh có xác phàm phù độ, phải nhận biết được qua Thiên nhãn, thần thông; các đẳng thần thánh chân chính khác ở các cõi vô hình tùng lệnh, tuân theo.
5-Con đường của Ta, có đủ định lực và tài năng để dạy các con tiến về Thời đại vàng, xây Trời mới, Đất mới.
6-Thiên Nhãn của Ta, có đủ phép Ta ban, nhìn thấu Thượng giới, Hạ giới, các đẳng thần linh, các tầng trời, địa ngục, có tài xuất hồn đi xuyên Vũ trụ, thông linh với Ta, như xưa Chúa Chits thông linh.
7-Sự hợp nhất của Ta, có đủ trí lực và gieo một Đạo Lớn mới, là cách thể hiện của Ta trong thời đại Mới, lâu dài sẽ hợp nhất tất cả các pháp môn, tôn giáo hiện có, làm cho các con Ta là Một với Ta, trong Đạo Trời Ta và toàn thể các con trên Trái đất này đoàn kết là Một để trở về với Ta.
Chỉ có Một Minh Thánh, không có người thứ hai.
Không đủ Bảy dấu hiệu này, thì chỉ là kẻ giả danh, không phải là Ta trong xác thân Hạ phàm. Các con hãy tìm Ngôi Hai ấy ngay trong trái tim các con, Linh hồn các con tự cứu rỗi, sẽ thấy ánh sáng của Ngôi Hai giáng thế ngay trong chính mình, để nhận ra Chân Chúa sẽ đến với các con trong Thời đại mới.
Tất cả những kẻ chống Luật Mới do Chân Chúa ban ra, coi như chống Thiên Chúa. Tất nhiên kẻ đó sẽ phải hối hận.
Qua nạn một, chớ vui mừng, còn phải tuân Luật Trời, phù độ Thánh Minh xây đời mới, thì sẽ qua nạn sau, nếu chống lại, thì chớ quên điều Ta đã báo.
Các thần thánh Ta đã cho xuống thế, đầu thai lập công, phải có linh giác mà nhận biết được Thầy của mình, bảo vệ Thầy, phù giúp Thầy lập Nghiệp Mới cho Ta.
Nếu các con là quỉ ma chống báng, sẽ có chỗ cho các con vào-đó là Địa ngục trần gian tiếp, và Địa ngục trong Tim Óc các con, rồi mới đến Hỏa Ngục do Minh Vương cai quản hàng vạn năm đón các con. Vì Ta thương, quỉ ma cũng là con Ta mà thôi, nhưng chống lại Minh Vương, e sau không còn bao giờ được còn hồn cũ nữa!
Rồi các con cũng sẽ biết rằng, sẽ không có Chúa Chits nào xuống nữa, không có Di Lặc nào giáng nữa, sau hàng vạn năm nữa; không có Đấng Tiên tri nào rao giảng Lời Ta nữa, ngoài điều Ta vừa nói.
Nay Ta ra Thông lệnh này, phổ độ toàn nhân loại, cũng là các bầy chiên của Ta vậy; lời Ta nói, các con phải rao giảng khắp nơi, cho đến khi lập được Nhân loại Đại Đồng, Thượng Ngươn Thiên đường Hạ thế.
Cha ban cho các con Linh hồn Hợp nhất cùng Ta, được An lạc trong tay Ta.
Thiên Chúa của các con!”.

                                                Vũ trụ Xuân
Minh triết sáng màu Xuân lồng lộng
Vương hoa Trời, nguyên thủy soi chung
Giáng chín phương, lại chín phương hồng
Thế như nước từ trên cao rót xuống…

Hoa năm xưa, nay hồng như mộng
Long tở đất trời thu cả vào tay
Trên vai người có hơi thở nồng say
Trời trở giấc, xoay tay ta những ngọc…

Thời khí vận theo núi, cây, suối róc
Chuyển màu người, Xuân vào cả ở tim
Thế nhân xanh, chỗ có tiếng chim
Đến đêm trắng, như tiếng chìm trong đất…

Nào đâu xa, người lặng im chuốt đọc
Nhìn khí đời, đất, nước đang rung
Như giếng đất nâng soi Vũ trụ
Hoa một đường thông đến tận cung Đồng…

Rồng thiêng cứ mải rong chơi như gió
Bay cánh chim Xuân đã  ngỏ thương yêu
Ngôi đỉnh chung nào mùa xanh Người gọi
Hai nỗi nâng niu khát vọng Thiên Triều…

                                          LUẬN VỀ CÁC SỰ

                                       NÓI VỀ CÁI DANH, CÁI NGÃ

Khổng Tử nói: Danh chính ngôn thuận. Nay Ta nói: Phải thể hiện Danh Chính của mình.
Đạo vốn không có danh, Thượng đế ở trong bản thể và linh hồn muôn vật nên không có danh, nhưng để thực thi Đạo-tức Định luật Vũ trụ, nên Thượng đế phải có Nhân tính và Danh tính-là cái ngôi vị, vị Tôi của mình, cái tên gọi là do Người Đời đặt cho Thượng đế. Làm gì cũng phải có danh-tức cái tên và cái bản ngã của mình. Cha là Đại Ngã, chúng ta là Tiểu Ngã. Ai ai và muôn vật đều có cái Ngã của mình-tức cái Tôi cá thể. Nếu mất cái Tôi đấy, thì không còn là anh nữa-cho dù anh siêu thoát đến bực nào-thì anh vẫn còn đó Một Linh Hồn Thường Tại-với cái bản tính không lẫn được của riêng anh! Bản tính là thế nào? Là toàn thể cái cấp tổ chức thông tin của Linh hồn anh, cái đó không ai cho anh, mà anh tự học, tự có-tất nhiên ban đầu, thì Cha có nạp vào cho nó một bản tính Thường Tại ban đầu, cho nó một cấp tổ chức đặc trưng.
Chúng ta hình dung thế này, các sao Bắc Đẩu có những thuộc tính riêng của các Ngài. Ta khác, các vị khác.
-Nhưng chúng ta hiểu là: Cái danh, cái tôi cá nhân là Thường Tại-nhưng ở kẻ phàm tục, cái đó biến thành cái tôi cá nhân vị kỷ, bo bo cho riêng mình, cái Tôi đó lấn át, chiếm dụng, chiếm cái Tôi của kẻ khác; chủ nghĩa cá nhân biến con người thành kẻ thù, thành đối tượng để chiếm dụng, mưu lợi nhau. Cái Tôi to quá, thành ra sân hận si mê, đấu đá, tranh dành, tham lam cố vị…Làm quan cốt thỏa cái Huyễn danh, làm giàu cốt thỏa cái Lộc danh, căm thù cốt thỏa cái Hận danh, hãm nhau bởi cái Hèn danh…
Cho nên, người giác ngộ phải quyết bỏ cái Lậu danh đó! Mà thay vào đó bằng Danh Chính.
Danh Chính là gì: Là cái danh chính thực của mình, là mình. Ai cũng có cái tên riêng. Danh đó là danh Thường Tại chân chính, nó phải biểu hiện được Thiên tính-Thiên Lương gốc, hay Thượng đế tính. Trọng bản thân mình, để thương đồng loại; biết mình là ai, biết người là ai, chứ không vô minh, hòa đồng vô nguyên tắc, lu mờ cá tính cá thể; không thể có loại tập thể ngu muội chạy theo một thứ huyễn tưởng, bảo gì nghe lấy! Mà cái tập thể đó là phải danh chính mình lên, làm chủ mình, làm chủ xã hội. Cá nhân cũng thế, vươn lên tầm cao hiểu biết giác ngộ, rồi làm chủ bản thân, sau đó xây dựng cuộc đời chính thực của mình, theo con đường chân chính hợp Định lý Vũ trụ. Cho nên, cái Tôi, cái danh của chúng ta là cái Tôi Minh Triết, cái Danh Linh ngã! Bỏ cái Phàm ngã, tiến lên Linh Ngã! Bỏ cái phàm tục, tiến lên Linh tục! Phải tục chứ, mất sao được tục, nhưng cái tục đó là cái cần, biết chế ngự và dùng nó đúng lúc, đúng chỗ, được việc, tiến hóa, thì đó là cái tục linh!
Xưng danh thì mới định phận. Nên nhớ, vĩnh viễn con người luôn thường có các số phận khác nhau, bản tính khác nhau! Nếu như cả trái đất này mà con người đều giống nhau đến cả bản tính thì…rất kinh! Nếu thế thì không còn là Thượng đế nữa! Ta chỉ cần các vị cùng nhìn về Một Hướng là được, cùng biết Đoàn kết cùng một Lực là xong!
Cho nên, xét rộng ra, sau này cấm cái việc ngu xuẩn là bắt tất cả mọi người sống giống nhau, ăn như nhau, làm như nhau, biến con người thành cái máy, như thế không lâu thì loài người biến thành trại tỵ nạn, rồi thành súc vật hết!
Ta chỉ đường cho các vị, rồi các vị tự đục đẽo, chế tác phương tiện mà đi, trên con đường Thánh Đức vô cùng lâu dài! Ai giỏi thì đi mau, ai kém thì đi chậm, không vì cái vội mà mạo báng nhau, rồi kỳ thị nhau. Nói là Đại đồng, ấy là Qui Về Một Gốc Thống Nhất, chứ không cấm có dị biệt-nhưng không là thứ dị biệt càn rỡ, ngu xuẩn, chống đối, vô đạo mà là cái dị biệt cao quý-nó là thế nào? Nó là sắc da, màu áo, màu dân tộc, là văn hóa và bản sắc vùng miền, là hương của thực phẩm, của cây cỏ hoa lá muông thú đa dạng, là sự tinh diệu của tiến hóa linh hồn, của Linh Hồn Thường Tại của chúng sinh… Đó tạo lên sự Minh Triết, sinh động, sống động của Thượng đế và của Thánh Đức. Trong mỗi một bản thể, có một Thượng đế riêng!
-Cho nên, Ta nói rằng, không những không che lấp cái Tôi, cái Danh của mình, mà phải khẳng định, xưng cái Tôi, cái Danh ấy lên một cách cao đẹp. Nếu cái danh, cái tôi ấy sáng, thì đời sáng, người sáng, Nhân loại sáng, thì phải biết nhân rộng cái tôi ấy cho mọi người biết. Nên sau này, các nhân tài, các cá thể có công lao, các nhà khoa học, tấm gương tốt-thì chúng ta phải quảng bá họ, nêu cao họ, tự quảng mình lên!
Nói về danh xưng. Trên kia, ngay cả bực thần tiên, còn gọi thầy của mình và xưng con-ví như Ngọc Phật xưng con với Di Lặc. Xét cho cùng, Ta vốn là Ngôi của Thượng đế tại trần, các vị tất phải xưng con hết. Nhưng Ta nguyện làm con Cha Trời, gọi Cha, Mẹ Trời, thì phải là anh cả của các vị.
Ta là Ngôi Hai tại thế, tức là ngôi vị Thứ Hai sau Vua Cha tại Thế, hay nói cho đúng là Thượng đế tại trần gian, thay Thượng đế lập Luật, hành Đạo, là “Ngọc Hoàng Thượng đế Tĩnh Tiên phổ độ”-thì Ta phải xưng Danh vị và cái Ngã của Ta. Là “Ta”.
Xã hội nào làm cho cái Huyễn danh, Lậu danh phát triển cao nhất-đó chính là xã hội Tư bản. Chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, tận cùng là tội ác cá nhân phát triển vượt bực, đi với nó là sự sử dụng vật dục nhiều và khuyến khích sử dụng vật dục, dụng bạo lực cá nhân và xã hội. Cho nên, về hình thức tổ chức xã hội, chúng ta kiên quyết loại bỏ CNTB.
Đạo Phật chủ trương loại bỏ huyễn ngã, ngã mạn, không có cái bản ngã, không có đại ngã Vũ trụ, để hòa vào Vũ trụ-nhập Niết Bàn. Bây giờ chúng ta nói là có Linh Hồn Tiểu Ngã, có Linh Hồn Đại Ngã. Muốn mất cái Huyễn Ngã, thì phải có Vô ngã, tức loại cái Tục Ngã đi mà hòa vào Đại Ngã. Vô Ngã cũng là Đại Ngã!
Thế có Vô Ngã rồi, có Ngã mạn nữa không? Ngã mạn là cái tôi quá đáng của mình. Thượng đế là tất cả, nên không ngã mạn, nhưng trong từng việc cụ thể, Thượng đế rất ngã mạn. Nên Ta cũng thế! Ngã mà không ngã, mới là Minh Triết Ngã! Ta dùng cái Ngã lực của bản thân, để thúc đẩy tiến hóa, để xóa cái Tục Ngã của chúng sinh, là Ta đã rất Ngã mạn! Nhưng vì Ta hòa vào chúng sinh, là tất cả, nên Ta Vô Ngã. Khi Ta xưng danh, là Ta rất Ngã, để khẳng định cái Tôi của Ta, cái Ta của Tôi. Không thế thì mọi việc không xong. Nhưng Ta sẽ tỏa quyền năng, sứ mệnh của Ta cho tất cả chúng sinh
, đó là sức sống và bản ngã của Ta cho tất cả chúng sinh thể hiện cái Tính Tôi, cái Ngã của chúng sinh, các đệ tử, cho nên Ta mất cái Ngã của Ta, hay nói cho đúng, Ta đã biến thành chúng sinh.
Cho nên Ta mới nói: Khi tất cả mọi người trên trái đất này đều vỗ ngực xưng danh: Ta là Thượng đế, thì thành Thánh Đức! Khi tất cả mọi công xã đều Lập Luật, hành Đạo, thì trái đất này biến thành Thiên Đường!
Sự tự trị, tự quản của mọi người, mọi công xã, Khu Tự trị…sẽ là cái Ngã của Ta cho các vị, thành chúng sinh, hóa ra thực sự thì Ta có tất cả-nhưng cũng không có gì. Vì Đạo vốn không của riêng ai, Thánh Đức là của tất cả vậy!
Tóm lại: Tu cho đến thấy cái Bản lai diện mục chính mình là cái Ngã, biết Ngã. Hành cho đến cái Ngã của mình hóa thành Thượng đế Tính-đó là Vô ngã, Vô danh.
Phải có Ngã ( cái Tôi), Danh ( Tên-chính mình); biến nó thành Đại Ngã (Vô ngã), Đại Danh ( Đại chúng). Đó là Danh-Phi Thường Danh, Ngã-Phi Thường Ngã!
          
                                           NÓI VỀ SỰ CHẤP

Không biết thì nói là không biết, biết thì nói là biết, vậy gọi là biết. Biết mà không nói, thì cũng gọi là biết. Không biết mà nói thì cũng là biết. Không tranh luận ghanh nhau, chỉ có dùng thuyết lý để chứng minh quan điểm. Không gì hay hơn là dùng thủ thắng trong tranh luận, rồi dùng quả vị, việc làm chứng minh. Khen chê, nhận xét hay dở, đánh giá đúng sai là có ích. Vô chấp là không chấp vào các cảnh sắc hình tướng tính trạng số nghiệp khi luyện đạo; chứ trong hành đạo là phải chấp. Thượng đế vô chấp nhưng đại chấp, bằng chính Luật Trời. Ta vô chấp mà chấp hết, bằng Luật Đạo. Các vị hành xử đời thường, muốn vô chấp cá nhân, thì phải chấp bằng nghi lễ, hành Pháp đạo đời cân phân; xã hội, gia đình phải có luật, ranh giới, không có không xong. Không luật, không nghi lễ, bất thành đạo. Mọi hình thức tổ chức, đều có qui định, hành qui định đó, mới là tổ chức. Nên, muốn có vô chấp, để cho không còn chấp ngã cá nhân với nhau gây nghiệp, thì phải xây dựng nề thói cho nghiêm, rồi cứ thế thể theo nề thói ấy mà hành, thì đúng với lý trời, lý xã hội, cá nhân không tạo nghiệp xấu.
Nói về hình tướng, tất cả là giả ảo mà cũng là thật ảo, chứ không chấp bề ngoài mới là người hiểu đạo. Kỳ này Ta xuống, mượn cái số hẩm chẳng ra gì, để các con phá chấp về đạo. Học trò có đứa không thấy Ta oai, đến nhà thấy Ta hót phân cho chó, đi chân đất, mặc quần đùi, nó coi khinh; nhưng nó chưa thấy Ta đi về Thiên giới, chủ quản cả cấp Thiên hà…thì nó chưa hiểu. Lại có kẻ thấy Ta làm đạo sư có vợ, thì nó không thích, nhưng nó có hồn vía đi đến Thiên hà, nó thấy Vũ trụ được tạo từ hai phần đối ngẫu, có hai dây Đạo trường âm dương, thì nó sẽ hiểu. Rồi nó thấy Ta hiền quá mà bắt nạt, coi khinh, nó đâu có biết Ta búng một cái, thì số nó cũng tan. Rồi lại có cảnh, thấy Ta  ăn mặn, nó cho là tà đạo, nhiễm như mọi người, nó đâu có biết, mỗi ngày Ta luyện công rồi phá trọc khí mấy tiếng đồng hồ, trong khi ăn chay thì không thấy được khí cảm. Lại có kẻ coi khinh thần thông của Ta, chúng giỏi soi thấy rõ hơn mấy chuyện bói toán, họ đâu có biết, đến học trò Ta, có lúc búng tay một cái, mưa đã tan, chưa nói đến chuyện đi tạo lập Thiên hà, Vũ trụ, thì sao chúng tin, thậm chí tạo ra linh hồn chúng nó. Học trò của Ta sau này, ngồi ăn cơm mà phá bão, rồi đi cắt cỏ, khiêm tốn vô cùng, đó mới hiểu lời Ta nói. Nhiều đứa kiêu ngạo, chưa chi chưa hiểu, đã vội phán xét Ta, nhưng nó
chưa làm nổi việc gì, nếu nó làm được như Ta, chắc nó hết thói đố kỵ, nhưng nó sẽ kiêu ngạo đến đâu. Kiêu ngạo đến mức nào? Đến mức chống đối, phá báng. Đến lúc nó đứng trước án tòa Thiên, linh hồn nó sẽ hiểu. Chưa nói chi đến trí tuệ của chúng, đọc luận một tác phẩm văn học cũng chưa thông, nói gì đến triết luận.
Rồi nó bảo Ta không chính, không nghiêm, nếu xuất hồn thấy Ta ngồi phán cho các các giáo chủ xưa, đến cả anh hùng dân tộc của các con, mà Ta thì trông như đứa nông dân ở trần, thì mới hiểu thế nào là đạo chính.

                                              NÓI VỀ SỰ THAM
Cái tham cá nhân là cái tham thường tình, không có chi mà lạ, bởi bản tính cố hữu của cá nhân đã có tính sở hữu và làm chủ bản thể của nó. Muốn làm chủ bản thể của nó, nó phải chiếm dụng xung quanh, kể từ khí thở trở đi!
Nhưng chế định cái tham cá nhân bằng Luật là chấp nó, tức biến cái tham cá nhân thành cái tham tập thể. Cá nhân bị ngụp bơi trong đó. Tham tập thể của chúng ta là khao khát cống hiến cho xã hội để xã hội tiến hóa nhanh, cao hơn; mang lại nhiều lợi ích tốt đẹp chân chính cho con người, trong đó có mình và gia đình mình. Tham công bình: Công bằng và bình đẳng, nên thấy sự bất công, bất bình đẳng, không dân chủ, thì phải đấu tranh bằng luật.
Tham giải thoát cũng không tốt, phải tuần tự tiến hóa, khi cơ địa và số nghiệp sang trang, thì anh mới là giá trị khác được. Tham giải thoát để rồi lánh thoát đời, thì xã hội ai lo, ai xây Thiên đường cho. Rồi các con xem, trải nghiệm trần đời rồi tu Huyền Pháp, sau này các con linh hồn sẽ TO LỚN HƠN tất cả những kẻ ham lánh đời. Ta đã quyêt như thế, thì các  con chớ sợ cái đời.
Tham ăn, có lúc béo, bệnh, không tu cao được, tất có lúc học bài kém. Ăn ngon thì ai chả muốn, chả tham; nhắc rằng: Thời Thánh Đức không phải là thời diệt khổ, mà là thời no ấm, đẩy đủ và là thời ăn ngon, mặc ấm-chứ không phải là diệt các thứ đó và diệt ham muốn. Nhưng, có nghĩa phải ăn đúng cách. Dần rồi khoa học chế tạo ra thức ăn ngon mà không còn giết vật, đủ đầy dinh dưỡng. Nuôi trẻ con mà nó tham ăn mau lớn thì mừng quá. Không có trẻ con thì làm sao có người lớn mà tu luyện.
Bệnh tham quyền lực cũng khó chữa, chữa bệnh này thì diệt cái oai của nó đi là cách tốt nhất. Ta đã tính kỹ trong Luật kinh, Giáo kinh, cứ kẻ thích oai, hạch sách, khoe mã, tranh đấu, ngã mạn cao, coi thường tập thể và người khác, thị quyền, thị oai…phải phế bỏ ngay.
Tham dục đến gây hậu quả nghiêm trọng như hiếp dâm, cướp vợ người khác, loạn luân, tổ chức mua bán dâm, buôn bán phụ nữ…..tất phải bị diệt dục vĩnh viễn ( thiến, tiêm thuốc diệt dục), để diệt mầm cá thể về sau.
Tham dục cũng là cái tham của Thượng đế mà thôi, các con của Ngài thì thích như thế, cũng là Ngài thích! Đến khi Ta cũng thích, nếu Ta không thích dục, thì chẳng phải là Ta trong xác thể này. Nhưng rồi cũng đến lúc Ta tiết chế cùng các con, khi đã sợ nghiệp.

                                                 NÓI VỀ SỰ CẦN

Tựu chung các thứ cần cho thân thể bản thể vật lý là cần: Ăn, mặc, ngủ, tình dục, công danh, lợi ích…
Cần mới sinh tham. Không cần không tham. Vậy trước hết muốn chế phục thân tâm, làm chủ nó thì phải chế phục sự cần. Chế phục bằng luật là căn bản quan trọng. Chế phục bằng tu luyện là hay nhất, vì cuối cùng là anh phải làm chủ anh, để đắc đạo. Ăn nhiều, ngủ nhiều, sinh hoạt tình dục nhiều…chưa phải là xấu, nếu cơ thể đáp ứng và cần thấy chưa đủ. Miễn là không gây nghiệp. Điều quan trọng là chế ngự được nó, tức là hoàn toàn chế phục nó cho nó vào một cơ chế tự thân điều độ, thích khởi thì khởi, thích diệt, chế là diệt, chế được. Tức làm chủ nó hoàn toàn. Chỉ có làm chủ nó, thì mới không phát sinh các nghiệp liên quan đến nó. Nếu bạn là người khát dục, thì đâu có tạo vía xấu, nhưng vía đó đeo bám linh hồn bạn, để bạn sau đó không thoát lên cao được. Vậy thì phải làm cho nó cháy cái đó bằng hai cách: Diệt nó-tức đưa nó về điểm không, ngược lại với sự khởi lên, hai là cho nó thỏa mãn, đến cao nhất, rồi dẫn dắt nó, để chế phục, rồi có thể diệt nó cũng có thể về điểm không. Tức là theo cả hai chiều cũng về được Không. Các việc khác tương tự. Đó là cách hay nhất, còn nếu nhịn nó, sẽ gây nghiệp; không chế, diệt được, thì tốt nhất là xả nó, tức cho nó mãn. Sau khi nó mãn, nó sẽ là cái khác, hoặc là chuyển hóa, hoặc là hồi đầu.
Quan điểm của chúng ta là có lý luận khoa học về vía, hồn, đốt vía, diệt hình tư tưởng, xuất hồn gom và diệt nghiệp, xoay vần hóa biến các năng lượng và nghiệp xấu…đến mức thượng thừa, thì xoay cả cung sao và cải hóa cả tương lai…nên các nguyên lý tu luyện không có gì bí hiểm hay khó khăn, phức tạp, cao diệu bí hiểm, mà rất thực dụng. Đốt vía, diệt vía, tan vía bằng mọi cách, chỉ còn Nguyên hồn để về đến Đại hồn.

                                       NÓI VỀ SỰ NHẬN THỨC

Vốn chúng ta từ Đại hồn xuống đây, tức đã có sẵn cái Đại giác trong linh hồn gốc, nhưng qua các số kiếp, mà bị che lấp cái phần đại giác ấy, chứ không ai dốt, vì khi anh trở lại là linh hồn, anh có thiên nhãn, anh nhớ lại và biết hết mọi thứ, đã có mọi thứ số phận và nghề nghiệp, tiếng nói trải qua, nhưng anh chưa thoát luân hồi, còn trả nghiệp, nên anh còn phải đầu thai tiếp mà thôi. Cái biết của hiện kiếp, là cái đã có chứ không phải là cái chưa có; cái chưa thành vốn là cái đã thành từ lâu. Cái chúng ta vô minh, đó là cái quên mà thôi. Nên thực mà nói thì, quá trình tu luyện cốt nhằm làm cho mỗi linh hồn nhận thức được chính mình trong vốn cũ mà thôi. Cho nên, không nên chê ai dốt, mà cần giúp người khác học tập, tiếp thu để tiến hóa, trở lại cái bản lai diện mục của chính mình.      
         
                                             NÓI VỀ SỰ NHẪN

Nhẫn, nhẫn nhục rất tốt, nhẫn, không chấp, bất thành nghiệp quả. Nhẫn nhịn là một tố chất trong luyện đạo. Nhưng với điều kiện anh biết xả trọc, chứ nhẫn mà cứ hậm hực, hận, cay cú…thì thà không nhẫn, chấp ào cái rồi tan sân nóng cho xong!
Nhẫn nhục chịu khổ, nạn…chẳng qua là rèn ý chí. Nhẫn nhịn cái ác, vô chấp mà cứu nó, ấy là từ bi cao thượng, độ lượng. Cam chịu cũng là nhẫn, nhưng cam chịu đến độ u mê, lầm lạc, tùy quá cho cái ác lộng hành thì không đúng lý Thiên Đạo.
Trong Đạo Trời, muôn sự vẫn thường sinh trụ dị diệt, thành trụ hoại không; cái mới sinh ra thì phá cái cũ, diệt cái cũ; không có sự chết thì hẳn không có sự sinh, không có sự đấu tranh, thì hẳn không có sự loại trừ. Thế giới tự nhiên vốn tồn tại qui luật đối ngẫu-cũng là qui luật đối lập nhau giữa các mặt của cùng một sự vật hiện tượng, đó là hai ngẫu lực âm dương trong sự tồn tại của muôn vật. Nên có lúc nó nhẫn nhau, chưa diệt phá nhau được, vì nó chưa đủ độ đủ sức, lúc đó cần nhẫn. Đến khi đủ sức, thì chính cái đối ngẫu kia nó tự chuyển hóa, khiến cho bên này phải nương chạy theo, nên lúc đó mà nhẫn, thì tự hại mình, không động không xong. Ấy là lý đạo vậy. Cho nên, nhẫn nhục về đạo đức, Ta coi đó là một thuộc tính đạo đức tốt. Nhưng về lý tự nhiên tiến hóa, Ta chỉ coi đó là một trạng thái thường biến mà thôi. Nó không thể bất biến. Nên, người hiểu đạo, thì khi cần tịnh là tịnh, đến lúc cần động là phải động, chứ không theo lý, cứ ỳ ra, thì đó chỉ là phường thúc thủ, không bị loại, thì cũng theo đà lạc hậu, chống tiến hóa, thì dù có chính cũng thành tà, sáng cũng thành tối là như vậy.

                                         NÓI VỀ THẦN THÔNG

Biết xuất hồn, chưa chắc đã có huệ nhãn, tức soi bằng mắt thường bằng huệ; có tha tâm thông khi xuất hồn, chưa chắc đã có túc mạng thông, tức biết quá khứ vị lai; từ huệ nhãn đến thiên nhãn còn cách xa nhau cả vạn năm ngàn kiếp; có túc mạng thông còn khó hơn nhiều. Nếu dùng thần thông mà ngạo diễn hại người, thì kiếp sau cũng di hại lâu dài. Có thần thông mà không có đạo là hỏng, có tài hại người thì gánh nghiệp muôn năm; có ngoại cảm mà không có tâm linh thì như người không có đầu, chẳng biết gốc tích ra sao, cứ thế diễn, nguy hại cho người khác. Học huyền thuật mà không có đạo đức, khác nào tự chặt tay mình mà không biết!
Cho nên, sau nếu kẻ nào dùng thần thông hại người, sẽ bị hành phạt rất nặng để làm gương cho Nhân loại về sau. Tu học huyền môn phải hết sức nghiêm túc, cẩn mật, điều nghiên tâm trí, sự học, sự tu, sự luyện cho nghiêm chính. Tài càng cao, sứ mệnh càng lớn, trách nhiệm độ thế càng nhiều; tài càng cao, thì danh lợi càng tránh xa, huyễn ngã phải bỏ xa, phải gần Trời hơn là gần quỉ ma. Học đến đâu, sám hối cái sai, kiểm nghiệm đến đó; thi từng phần đánh giá hay dở tốt xấu rõ ràng. Kẻ nào vi phạm các luật học, phải phạt để sửa chữa.
Sau này Nhân loại tương lai có thần thông nhiều, ai ai cũng sẽ có, mọi thứ gọi là đồng bói, thầy bà, bùa bả, các thủ thuật huyền học cũ, sách vở tà mị, kinh sách cũ lạc hậu, triết lậu phản động, sách phản văn hóa, lý thuyết phản Đại Đồng, tất là nguy hiểm không cần cho tiến hóa Mới, phải bỏ dứt, vì không ai cần nữa. Nhưng sẽ nảy sinh vấn đề quan trọng là: Do có thần thông, thì ai cũng như ai, rõ mọi việc, đọc được tâm tưởng của nhau, giả cũng như thật, tốt cũng như xấu. Một là chấp hay không chấp; quan tâm hay không quan tâm; soi mói rồi đố kỵ hoặc hạ nhục nhau, trêu đùa nhau, xâm phạm riêng tư cá nhân nhau, hoặc không; soi mói vào các phần kín của nhau và đời sống tình dục trong gia đình của nhau, xâm phạm thân thể nhau, rồi bêu riếu, dở trò ma quỉ, hay là không…
Đây là vấn đề hết sức quan trọng, vì nếu có chiến tranh, đấu tranh trong huyền môn, cõi vô hình thì còn gây tai họa không kém gì chiến tranh xã hội!
Vậy phải làm cách nào: Luyện Đạo đức hết sức nghiêm túc; hành phạt cao nhất đối với kẻ biến chuyện thần thông thành chuyện nhố nhăng, hại người, không tôn trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. Thiên Hội, Hội đồng Nguyên Lão Tối cao có bộ phận giám sát này cho đến cấp Công xã, dùng thiên-huệ nhãn quán chiếu, nếu có vụ việc, phải kiểm tra nghiêm, thầy dạy trong Nội viện phải kiên dạy học trò về điều này. Phải coi điều có thần thông chỉ là một việc tạm, một phương tiện để tu đạo, thoát Luân hồi. Kẻ nào coi thần thông là cứu cánh, là sự háo tài để khoe mẽ, hoặc học cốt để thỏa trí trò mò, có rồi thì láo nháo hại nhau, u mê hơn trong tham sân si, đố kỵ, tranh tài, thì phải hành phạt tới cùng. Nếu không tiến bộ mà tiếp tục gây họa, thì trên kia, Ta cùng các quan sẽ cắt mệnh, để đưa nó về, sẽ có cách dạy cho nó hoàn nguyên.
Ngoài ra, theo kinh nghiệm của các thần dân ở trong lòng Địa cầu, họ có một loại gương kính, hoặc đá, màu sáng bạc ánh hơi vàng trắng, để làm nhà, nhìn từ ngoài vào không thấy, dùng nhãn chiếu thì khó nhìn vì lóa, đi xuyên vào thì bị chặn lại bởi tia chiếu trong nhà hoặc trên cao màu trắng đục, nên không thấy gì. Có như thế mới đảm bảo được sự yên ổn và riêng tư của mỗi gia đình, tôn trọng cá nhân và nhân phẩm con người. Chúng ta trong tương lai phải nghiên cứu bằng được phương pháp này!
Ngoài ra, phải kiểm tra nghiêm khắc cá tính học sinh, rồi mới được cho học các phần cao hơn. Sau này, về rất lâu sau, thì cả Nhân loại mới có thần thông, còn nay, đến cả vạn năm nữa, vẫn phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ sự an lạc thật sự của Nhân loại Mới.

                               NÓI VỀ HUYỀN MÔN HUYỀN THUẬT

 Huyền môn, hay còn gọi cho đúng là các bộ môn Linh thuật, tức luyện nghệ thuật liên quan đến tâm linh, như bùa chú, thư phù, phong thủy, phù thủy, đồng cốt, huyền môn như luyện đạo, luyện hồn, yoga cao cấp nói chung…
Có hai loại chính: Luyện làm tà-vì lợi lộc công danh ích kỷ, có thể làm ác, thứ hai là luyện pháp cứu nhân độ thế, luyện đạo để đắc giải thoát…
Huyền Pháp của chúng ta là loại luyện đạo để đắc pháp, đắc đạo, giải thoát.
Xét về nguyên lý, thì đều dùng năng lượng tâm linh, ý niệm, nội lực, năng lượng Vũ trụ, cây cỏ, thuốc mà luyện. Thư phù, yểm đảo, bùa bả, đồng thầy phù thủy…đều liên quan đến việc tâm linh cả, gọi là Huyền môn-tức là huyền thuật tâm linh.
Ta đã nói nhiều về việc này, cả trong Luật cũng đã nói kỹ. Nay nói thêm: Loại bỏ tất cả các hệ học về huyền môn cũ, để làm sạch cõi vô hình và để làm sạch đầu óc tà hắc của Nhân loại, để thống nhất hoàn toàn Nhân loại, để thực hiện cuộc cách mạng tâm linh và văn hóa Thánh Đức. Vạn Pháp qui Tôn, Vạn phép qui Thiện. Tôn là Thượng đế, là Tông-gốc. Thiện cũng là Thượng đế. Đại Thánh Đức là Đại Thiện. Thiên Pháp có tất cả cơ bản các hệ huyền môn cũ, nhưng đổi mới hoàn bị hơn, để thống nhất tâm linh Nhân loại, để xóa bỏ tận gốc các pháp cũ gây chia rẽ con người và huyền môn tà vốn là cái gốc rất nguy hiểm và sâu xa trong chiến tranh tâm linh, làm loạn tâm linh, để dẫn đến làm loạn xã hội con người.
Tất cả các môn phái huyền môn rồi sẽ cần phải thu xếp để cải theo Thiên Pháp. Tất cả các tôn giáo để phải gỡ bỏ chính pháp để đổi theo Chính Pháp Thiên Đạo. Tất cả các đình đền chùa miếu…phải tu sửa dần dần và thành các Đền thờ Thượng đế. Tất cả các môn phái khí công, Yoga…đều dùng lý thuyết Thiên Pháp để dạy, sửa cho phù hợp. Các loại bài dạy-kinh nghiệm về công năng đặc dị siêu đẳng-nhưng cần thiết, chân chính, thì giữ lại, bổ sung vào Thiên Pháp cấp 6. Phần dạy công năng đặc dị-nhưng không phổ biến. Tiêu bỏ tất cả các loại bùa, bả thư phù, cách luyện bùa, độc, các hình thức huyền môn đã có. Nếu chúng ta đã giác ngộ về các Nguyên lý đạo và năng lượng, sẽ hiểu rằng: Mọi bí mật của các thứ này đã không còn bí mật và đã lạc hậu, trong thời đại thống nhất tâm linh và khoa học. Đã không là bí mật và với trình độ cao của loài người về tâm linh, thì các trò đó đã không còn tác dụng và không cần thiết nữa, khi chúng ta quyết tâm bỏ tha lực tà nghịch, mượn bợ, để chính chúng ta tu luyện thành siêu đẳng. Cho nên, ai còn bám chấp vào bùa bả, phong thủy…thì vừa kém hiểu biết và còn là chống Luật Trời mới. Về phong thủy, chỉ cần đặt quả cầu Thạch anh, có hình Thiên Phù, hoặc một Kim tự tháp trên nóc nhà là hóa giải mọi hướng xấu, đặt hướng nào cũng được! Không sợ sao chiếu xấu. Mộ phần đặt kim tự tháp, thì biến thành cái huyệt thông cả trời đất, quan trọng là có dám đặt không.
Xuất hồn ra, tung ý một cái, mọi bùa bả tất phải tan; phóng ý xuống, thổi bay ma tà quỉ ám…
Ngoài ra, như chúng ta đã biết, nếu như anh vay năng lượng, anh phải trả chỗ khác. Anh niệm ý lực vào đó, để phù làm việc gì đó ngoài anh, sau anh cũng phải gánh, theo luật phản phục và phản lực-chưa kể đến việc sử dụng các loại ký hiệu đó để làm việc ác, tức dùng hình tư tưởng bậc cao làm việc ác, tức là đã vay vía và nợ vía, sau linh hồn sẽ mắc vào cái lưới bị rách các mức năng lượng, hoặc bị bám vào các mức năng lượng tối, thành ra không siêu thoát được; đặc biệt, khi anh không còn sức, thì chính mức năng lượng đó quật lại, đó là lý do gánh nghiệp của các vị thầy bà phù thủy, nhiều vị đến cuối đời lê lết mà không chết nổi, bị âm binh về hành khảo khốn khổ khốn nạn; vô khối phù thủy chết đi, bị ném xuống hỏa ngục…
Về phong thủy, tức là khoa học sử dụng năng lượng cho hợp với cơ thể, môi trường nơi ở của con người. Nếu chúng ta khai mở các cửa sổ thông với Vũ trụ, luyện huyền công siêu đẳng, tự chữa bệnh tật và xuất hồn lên cao, sửa được cả số mệnh, thì việc chọn hướng nhà, bếp, nơi ngủ, rồi cả việc dùng tha lực của mồ mả xương cốt tổ tiên sẽ lạc hậu, không còn cần thiết! Nên không hay ho gì những việc đã cũ này.
Ngày tốt xấu cũng là mức năng lượng của Vũ trụ tuyến phản phát quang xuống trái đất, dùng huệ nhãn cũng biết được, rồi vì mức năng lượng chúng ta có thể tự điều chỉnh được về nguyên khí trong nhà, thân thể…thì chọn ngày giờ cũng sẽ không cần thiết.
Về lý số, như Kinh Dịch, Hà Lạc, Tử Vi, Tứ Trụ, Thái Ất…một là toàn bàn việc đời sống con người kiểu cũ, thực dụng kiểu làm quan, phát lộc, tiền tài, tranh đấu; luyện đạo thì ít, cải đời thì không, mà chỉ bàn các việc ấy cộng với xem nhân sự, biến dịch dự báo…nay chúng ta cao phép, liếc mắt là biết thiên cơ, việc chi cần nữa, người Thánh Đức thì như nhau, đạo là đời, cần chi tiền tài quan vọng mưu mô đánh trận, buôn bán…Hai là: Đây là các sách của thời đại mông muội, con người tính toán theo cách đơn giản về các sự, không có thần thông, trong một đời sống xã hội cổ xưa; ngay cả các sao, mức năng lượng Vũ trụ tuyến nay đã khác, thì dùng chúng không còn chính xác và tính chất khoa học đã lạc hậu. Nên Ta cải biến để sáng tạo nên Lý Đạo-bàn việc, chiếu việc Nguyên lý, Nguyên năng, năng lượng, tuyệt nhiên không bàn đến dự báo. Cùng lắm là xem thiên thời, địa thời, nhân thời và thiên văn-nên Lý Đạo là Khoa học hoàn toàn, Khoa Thiên Văn để tìm hiểu các Qui luật Vũ trụ, chứ không có chuyện xem bói, dạy việc…
Cho nên, không hay ho gì việc dùng bùa bả, phong thủy, lý số cũ. Với Thánh Đức, kiên quyết bỏ hẳn!
Nói về bùa, thì Thiên Phù là cái bùa thượng thặng nhất, vì các tôn giáo và các pháp môn huyền thuật xa xưa, đều vô cùng trọng, dùng tha lực, kính, sợ Bảy vị Bắc đẩu-chính là Thượng đế. Ta dùng Thiên Phù là đệ nhất bùa-không ai hơn được nữa. Đến khi Linh hồn chúng ta hòa nhập với Cha, thành thần tiên tại thế, thì sức mạnh chúng ta như một vị thần thánh, phật tại thế gian rồi, nên nếu mà nói về huyền thuật, thì người đắc đạo cấp 7 Thiên Pháp, có quyền năng ghê gớm về huyền môn! Hãy nhớ là Ta đã phá nhiều cơn bão trong các năm 2008-đến 2011, 2012…
Nhưng chúng ta là tất cả, nên phải thống nhất về một mối, tránh loạn đời loạn thế loạn nhân loạn tâm linh. Cho nên, người khôn ngoan và hiểu thời thế, hiểu huyền môn, hiểu thiên cơ, thì nên chọn con đường Thiên Đạo, luyện Thiên Pháp để đắc mọi thứ có thể về huyền thuật, về đạo, về sức khỏe, về giải thoát, về an lạc…khi đã chọn thế gian này để đầu thai vào thời Thánh Đức. Và như đã nói, những Linh hồn ấy đã nhìn và chọn Ta-cũng như Thánh Đức mà đầu thai xuống, để chọn và đón, được cơ hội cao diệu chân chính cuối này của Nhân loại!
Đó là Ta nói thật.
                                           NÓI VỀ HIỀN TÀI

Nhân loại phát triển được đến ngày nay và muôn năm sau theo chiều tốt, là do các hiền tài cống hiến, chứ cái ác nó chỉ có phá, kéo thụt lùi lịch sử, tiến hóa. Các hiền tài đều là các Linh căn, Linh hồn cao xuống thế đầu thai, lâm phàm, trong đó có các vị thầy, giáo chủ, các thiên tài trong mọi lĩnh vực, theo lệnh Vua Cha mà xuống trần cứu mê, dạy sáng. Ở họ trước tiên phải có, đó là lòng thương dân; tất nhiên có vô số bồ tát xuống trần cầm quân, cầm luật, dùng bạo lực…nhưng dù có phải sử dụng bạo lực, thì vẫn chính nghĩa. Tức cái Lương tâm-Thiên tính nó sáng.
Cho nên, trước hết nếu chọn hiền tài, chọn người, phải chọn người nhân hậu, sau mới chọn tài. Tuyệt nhiên không chọn kẻ xảo ngôn. Khổng Tử nói: Xảo ngôn hỹ đức-tức kẻ xảo ngôn vô đức, Ta cho là đúng. Vì xảo ngôn, cái mồm nó nói điều lắt léo, gian ngoan, xảo quyệt nó hiện ra đằng mồm cả, ở đó có vu gian, ác hiểm, hồ đồ, báo cáo láo, nói dối, xiên xẹo…Nếu không có những thứ đó, thì cũng có cái tính tâm bất nhịn, tâm không thuần, không thể nói là nhân hậu-vì tâm ác, đâu có tốt.
Người Việt Nam, nhất là ở Miền Bắc, có cái tính nói bóng gió, cạnh khóe, tốt thì là sự khéo léo, tế nhị-nhưng hiếm, còn lại phát triển thành lời xâm xọc, đâm thọc, móc máy, xiên xẹo…rất thâm độc. Ta từ bé sinh ra, đã không có cái tính này, nên rất khó chịu khi gặp kẻ nói thế, hầu như tuyệt nhiên Ta không biết nói lại, có nói thì nghĩ mãi mới ra, trong khi đa số người Bắc kỳ nói rất dẻo, dù ít học, có khi họ thâm độc kinh khủng, thay vì tế nhị thâm thúy.
Đây cũng tạo ra cái tính cho người Việt: Nhí nhảnh, lanh chanh, có khi hồn hậu ( hồn nhiên đôn hậu), nhưng đụng đến lợi ích, là lập tức cạnh khóe, nói xấu nhau, rồi tranh dành đố kỵ rất mệt mỏi. Người Tàu xấu thâm kiểu mưu mô, người Tây không có tính đâm thọc thế, nên văn minh xã hội dân chủ hơn; người miền Nam Việt Nam, do dân tứ chiếng về lập miền đất mới, nên tính cách thông thoáng, rộng rãi, tính Anh Hai, họ ít nói kiểu xảo sọc, nên vào Nam mà nói xảo xọc, dân không hiểu! Họ không có tính cách ky bo, tủn mủn, chấp vặt nhiều-Tự nhiên về tính cách cộng đồng, đã có tính vô chấp, cao đẹp, vô tư trong sáng. Họ cũng ít có tính cục bộ bản vị kiểu phong kiến, một người làm quan cả họ được nhờ; một đồng hương, có chết cũng bảo vệ, nâng đỡ đồng hương khác, còn quê khác thì mặc xác chúng nó! Ta nhắc rằng, Ta không có cái tính xấu đó, thấy ai tốt thì quí, xấu thì xa, không trọng đồng hương bằng đồng tính, cho nên, vì không quỵ lụy đồng hương nó làm quan, lên có khi nó ghét, nó đè nén mình! Xưa làm quan, có đứa đồng hương được chú nó gửi nhờ, nhưng vì nó láo, hư, mà bị Ta hành cho bật cả gốc. Nên tính Tâm công bìnhDĩ công vi thượng-tức tất cả vì việc chung rất quan trọng.
Cho nên, tu luyện, chọn người, trước hết là tu thuần tâm, thuần tính và tình thương con người, chúng sinh rồi mới Tịnh tâm-Tịnh tính-Đắc đạo được. Khi còn cái tính xảo quyệt, xảo ngôn, thì tu gì cũng không đắc! Tâm nó nhảy lung tung, là do mình chưa biết dắt nó vào chuồng tịnh-không sao, nhưng cái tâm mình mà chưa thuần lương, tâm thiện, thì phải sửa còn nhiều, tức mồm nói một kiểu ( Trừ bậc đại giác đắc đạo rồi, người ta nói gì cũng chỉ đúng chữ Một), lòng nghĩ kiểu khác, có kẻ tâm rất dữ, nhưng trông rất hiền, hoặc trước mặt nói ngọt nịnh xớt, nhưng trong đầu nghĩ kiểu khác. Ta đọc được nhiều kẻ loại này, nên rất biết họ.
Có trí, cao đạo….mà không có lòng trắc ẩn và tình thương-tức không đánh thức cái bản vị tôn trọng giá trị con người, chúng sinh, đắn đo trước một hiện tượng, số phận, sự việc…mà vô tư quá, đau, khổ, oan, nghiệt…mặc mày, việc tao tao làm, tao Hư Không đây…thì vứt! Nên nhớ, Thiên Đạo chúng ta xây đời, mà không trọng con người và cuộc đời họ, như Thượng đế thương chúng ta, thì đắc đạo phỏng ích gì?!
Người hiền, tất phải thương chúng sinh-trong đó sợ làm kẻ khác đau. Chúng sinh là tất cả những linh hồn có ý thức: Từ con cá, con tôm, đến các con vật, con người. Nên thấy cảnh giết con vật, để lấy thịt mà không động tâm-thì tâm không ác, thì cũng không có lòng trắc ẩn-tình thương. Có tu mà chưa thế, chưa đắc đạo. Dù có lòng buộc phải ăn thịt, do hoàn cảnh, có khi buộc phải giết con vật để mình sống, nhưng có cách siêu cho nó, thương nó, thậm chí tìm cách làm nó không đau đớn khi bỏ xác, đó là thiên lương vậy.
Vốn Thượng đế là thiện và ác, là sinh và diệt-Vô tự tính-tức không phân biệt: Không phân biệt văn hóa, sang hèn, dân tộc, quốc gia, địa vị, trí tuệ, giai cấp… Ta cũng có tính đó, nhưng phải có nhận biết, không thể không nhận biết-nếu không nhận biết được thật hay xấu giả, ác thiện đúng sai, thì làm sao tu được, tiến được, giống như anh đi trên phương tiện, mà chẳng biết nó làm bằng gì, đi lối nào, thì rất nguy hiểm.
Hiền tài phải biết thúc đẩy tiến hóa theo nhận biết Đường Sáng-Tiến lên, lên cao. Đấu tranh với kẻ ác, hư…là thương nó mới hành nó, coi nó như con cháu mình, như học sinh của mình, để nó tiến hóa, chứ không diệt nó, trừ trường hợp đặc biệt. Chỉ có Ta, các Thánh Tam Giáo Tòa, Cha, Mẹ, mới có quyền diệt Linh hồn-nhưng cực kỳ hạn chế, hy hữu. Chẳng qua Ta đe, cũng giống như Cha dạy có dọa, không thế không có Luật để giáo hóa là răn đe kẻ xấu để bắt nó phải học. Thực tế mà nói thì Tam Giáo Tòa đúng là có diệt rất nhiều linh hồn vô đạo, không thể cải hóa.
Sau này, chúng ta vẫn kiên trì theo phương pháp: Không sử dụng bạo lực. Thiên Đạo không khuyến khích sử dụng bạo lực, bạo lực có thể tiến hành do quần chúng bức xúc, nhưng chúng ta không tổ chức và lãnh đạo bạo lực. Chúng ta theo cách: Từ bi, hỷ xả, dùng đạo dạy đời, dùng Luật Trời để xử trên số phận con người-đó là Luật cao nhất trong mọi thứ luật. Kiểu gì anh cũng phải bỏ xác. Anh sống đến sợ làm ác, xấu, không tham lậu vì số kiếp anh sau phải gánh y như những thứ anh đã làm, đã gây ra-tức biết sợ mà tu, sợ mà không dám làm sai tái phạm….thì mới gọi là giác ngộ Chân Lý.
Chọn người hiền, là chọn người không tham lậu. Tính người có khi hiền hậu mà vẫn tham lậu! Từ đó mà sinh ra thói xấu, ác. Nên phải trừ tham lậu: Muốn hơn người khác về mức thụ hưởng và tư hữu. Nên-từ Vua đến quan, đến thứ dân, chỉ phân cấp quản lý, còn cấm phân hóa giai cấp, tầng lớp và mức hưởng thụ vật chất. Dân còn nghèo, vua phải sống như dân; vua ở cạnh dân, ngày làm cán bộ, tối đến làm dân; cấm đặc quyền đặc lợi, hình thành cái gọi là tầng lớp trên, tầng lớp quí tộc; làm cán bộ mà hưởng lộc hơn dân, thì xin mời anh nghỉ! Làm hết thời hạn, về làm dân, lao động bình thường, không bổng lộc lương lậu gì hết. Ai cũng có thể bình đẳng thi thố làm cán bộ. Làm cán bộ chẳng qua dấn thân gánh nặng để được công quả giúp dân nhiều hơn mà thôi. Chỉ khác là: Ai tài đức, sẽ được nhân dân tôn quí, tin phục, Trời đánh giá cao, Ta chọn làm quan và tiến hóa cấp tốt, nhanh hơn trên Trung-Thượng giới, đó là phần thưởng cao quí nhất đối với một kiếp tiến hóa.
Dân cũng cứ nhìn vào đó mà đánh giá phẩm chất con người, để lọc, lựa hiền tài. Dân đưa người bất chính lên, sau nó làm khổ dân, thì chớ trách Trời không thương! Ta ở trên cao, dòm thấy đứa nào ăn cắp, ăn chặn, tham ô…tất sẽ cho quan Khâm sai Giám sát xuống bắt, hoặc trị.
Lại nói thêm: Sau này Ta hiện xuống dạy Hội đồng Tâm Linh và Thiên Tử thường xuyên. Trong các Nghi lễ đặc biệt như 4 ngày Đại Nguyên năng ( 4 Tiết thời lớn),  ngày Khai Thánh Đức, ngày Truyền Pháp(  21 tháng 6); các ngày Vía Cha, Mẹ, Thầy ( 9/1; 9/8; 9/11), nên tổ chức Hội lễ. 4 ngày Đại Nguyên năng, là ngày Vũ trụ thu về một mối, tức Thông linh Tối cao, nguyên khí về Trung Phương, thì làm hội, đó mới là Kính Thượng đế. Tổng cộng có 9  Ngày Lễ trọng. Thì Ta và Cha, Mẹ, các Thánh Bắc Đẩu và các Thánh Khai Đạo, Các Thầy sẽ xuống. Ngự ở các Ghế Thiên Linh. Đạo Ta là Thiên Linh Đại Đạo-gọi tắt là Thiên Đạo. Vua Cha là Trung Phương Thiên Linh. Ta là Trung Phương Thiên Tôn. Bố trí các Ghế Thiên Linh như hình Lý Đạo. Sau, các con hãy quán tưởng Lý Đạo như thế, rồi đưa hình Bắc Đẩu vào Trung Phương, là hợp Luật, sẽ được trở về nơi đó.
Dưới Ghế Thiên Linh là các ghế trần, rồi mới đến ghế các vị đại biểu. Chư Thiên giáng xuống, các vị có mắt huệ đều nhìn thấy hết, sẽ ngồi vào các Ngôi Ghế qui định.
Việc thông linh, thông qua Hội đồng Tâm Linh trong Hội đồng Thánh Đức Tối cao của Giáo Hội.
Ta, các Thánh Khai Đạo sẽ dạy các việc, không chỉ trong các ngày Lễ trọng. Dạy có thể mượn xác điển, có thể giáng truyền tâm, có thể chỉ dạy trực tiếp, nhìn là thấy, nghe là hiểu. Nếu Hội đồng Tâm linh mà chưa đủ tài như thế, thì thay người khác để đủ tài tiếp thông với bề trên.
Dạy cái gì, phải nghiêm túc ghi chép, luận bàn mà làm, dân chủ tấu cáo nếu còn thấy chưa thông, cho phát huy dân chủ như với Chư thiên có xác tại trần. Nhưng kết luận, Thông linh phải làm, cấm bỏ đó, hoặc không làm, chống lại, là bất tuân Thiên Lệnh, tội đó không nhỏ.
Các nơi Tự trị nhưng Tuân theo sự Tập trung Trị thế của Thiên Hội và Ta, Cha, các Thiên Tử sau cùng các Thánh. Trao quyền tự trị, tức là cho tự quản cao độ, nhưng không có nghĩa tạo ra một ông vua con, muốn làm gì thì làm, tạo ra Luật pháp riêng bất tuân Luật chung, bất tuân Thượng lệnh. Một đứa làm chống, sẽ có loạn, nước đó sẽ chịu tai họa nhiều việc, Ta sẽ bắt đứa đó đi, công khai xét xử trên Trung giới để làm gương. Kẻ thông hiểu Luật Trời, thì phải coi việc xuống thế đầu thai là một lần học tập mà thôi, tranh thủ tu luyện, lập công để thoát Luân hồi, chứ không phải xuống thế để hưởng thụ, tranh dành, chống Ta và làm khổ chúng sinh. Bỏ xác có mang được những thứ tham, ngạo đó đi không? Các Luật quốc gia, Đại Khu Tự trị, sau đều phải được thông qua Ký duyệt của Thiên Tử và Ta xem. Kẻ chống Giáo Triều là chống Thượng đế, Thiên Tử. Giáo Triều sẽ quản lý toàn bộ tuyệt đối công tác cán bộ-tức tuyển chọn Hiền tài cho Thánh Đức. Giáo triều nắm cả Thế quyền và Đạo quyền. Dân chọn ( như Trời chọn), có thi tài đức, Thiên Tử chấm ( Thượng đế tại trần chấm), chọn lọc, bổ nhiệm theo cách Chính. 18 Khu vực Thế giới thay nhau làm Thiên Tử, mỗi quốc gia được làm 9 năm. Lần lượt làm theo thứ tự 1-2-3-4-5-6-7-8-9-của các Phương Đạo, để tạo sự cân bằng âm dương, cân đối theo 7 vị Bắc Đẩu-tức hợp với nguyên khí và thần lực Vũ trụ, tránh loạn thế, loạn nguyên khí. Tất cả hành Pháp theo Lý Đạo-ấy là nương theo Trời mà hành đạo, gọi là Thuận Thiên hành Đạo. Bậc hiền tài phải hiểu sâu sắc định luật này!

Kết luận: Tóm lược là, hiền tài nhất định phải có các đức tính như sau-mới được Ta sử dụng, trong mọi giai đoạn, đến muôn đời: Phải đủ 9 đức này:
1-    Nhân hậu.
2-    Tâm công bình, dĩ công vi thượng.
3-    Thuần tâm, thuần tính và tình thương con người, chúng sinh.
4-    Không phân biệt.
5-    Theo đường Sáng-Tiến lên.
6-    Sợ làm ác, xấu, không tham lậu.
7-    Thông linh phải làm.
8-    Tuân theo sự Tập trung Trị thế.
9-    Thuận Thiên hành Đạo.
Đây là các Tiêu chí chính, để chọn lọc, lọc lựa, đánh giá hiền tài. Thiếu một đức, thì không bổ nhiệm. Thực ra toàn bộ 9 điều này, đều nằm chung một Đức là Tính Trung Phương mà thôi!
Đó là 9 điều tính cách của các bậc đắc đạo-đó là điều đủ. Tuy nhiên, về chọn lọc Nhân tài về sau, còn phải là đắc Thiên Pháp đến cấp 7-đó là điều cần. Có cái đắc này, sẽ là nền tạo ra 9 điều trên. Tức đắc Đạo. Dùng thần thông hành Đạo kết hợp dùng thân hành Đạo =gọi là kết hợp Vô vi và Hữu vi, Vô hình và Hữu hình để hành đạo xây đời. Ví dụ dùng xét Lý Đạo và Thiên Nhãn soi chiếu người, trời, thiên tượng, để tiến hành công việc, để dùng cho thuận ý Trời, là cao diệu! Bậc Thiên Tử phải biết được Lý ấy, tránh được sai lầm không đáng có. Các cấp cán bộ, phải biết mình, biết việc, biết thời thế mà phụng mạng để phụng sự sứ mệnh của mình và Thiên Tử, phù rập, can ngăn Thiên Tử, giúp chúng dân tiến hóa. Đó là bậc Quân Tử chính Đạo. Chớ dại mà thấy tượng Trời bất hoặc mà mưu tính đồ phản, lúc này thuận, đến lúc hết thuận, thì Ta sẽ dạy cho biết phép thế nào gọi là chống Vua. Kẻ hiểu Luật, phải biết nếu vì sự ích kỷ của mình mà phá vỡ Luật pháp, thì sẽ đẩy lê dân trăm họ vào đấu tranh đau thương, được là có thể được một người, mà mất thì mất bao số phận tính mạng, nên có câu: Một tướng công thành vạn cốt khô, được một ngôi mà mất bao nồi xương máu! Nhớ đó, thời nay đã khác, niêm luật khác, thích chơi dao sẽ có ngày dao đâm vào cổ, nên quay cán mà muôn đời Phù Chính thì nên thân.
                                  Giữ  Đền hưởng Lạc  muôn năm
                                 Chớ mong Đền đổ nảy Làng  ác gian
Giữ nền chính, cũng chính là cái đạo đức cao nhất là thương dân mà thôi; thịnh, trị, dân an, loạn huyễn thì dân khổ, muôn đời xưa nay đều thế. Nên có chọn, phải chọn, thì phải chọn cách tốt nhất, hay nhất để làm cho sự chính bền nhất, an nhất, thuận ý Trời nhất. Cốt yếu là lập nền Thánh Đức của Ta đến muôn đời muôn năm sau-không được đứt. Nếu không, một là trái đất của các ngươi sẽ rơi vào tay bọn hành tinh bất chính khác, hai là đại loạn, lại khổ dân. Tất nhiên trong lịch sử quá ư là lâu dài nữa, theo định lý vũ trụ có thịnh suy bỉ thái là lẽ thường tình, nhưng cơ Trời lý Đất đến nay là hành Thiên Đạo, thì không thể đổ vứt, mà chỉ có canh cải, đấu tranh để tiến hóa để đi lên mà thôi.
Cho nên, nếu thấy chính sự đổ nát, suy tàn, thì bậc anh hùng hào kiệt thương Cha, Ta cùng chúng sinh, phải biết sửa sang cơ sự, đảo lại ghế ngôi theo đường chính, nhân hậu anh kiệt đàng hoàng, chứ đừng có dại tạo phản, theo thói giậu đổ bìm leo, thì dù tạm có hay, sau Ta cũng cho dở. Nói thế không sai!
Nếu thấy thiên tượng bất an, nhân loại loạn dịch bệnh, đấu nhau vì cơm áo, cũng phải tìm mọi cách an dân, hành Đạo chính cho nghiêm. Lúc đó chớ có dại mỗi nơi một đứa, tìm cách phá nát cả ra, mong kiếm chác công danh, khổ dân mà thôi. Đến lúc Nhân loại hợp nhất, phải bị hợp nhất, không phân biệt, đúng qui luật, mà cứ phá ra, xé lẻ ra, là sai, là bất chính. Mọi ngôn từ, lý lẽ, dù có thể rất là hay, mị dân đến đâu, thì cũng bất chính, nếu chống lại điều vĩ đại này. Còn nếu anh không Đại Đồng được, thì lùi ra, ngồi xuống để cho người khác Đại Đồng. Anh muốn có Đại Đồng, người ta cũng muốn Đại Đồng, anh xưng, người ta cũng xưng, rồi không hợp, để xừng chống nhau, thì trước hết anh sai. Nếu anh không sai, thì anh đã tìm cách hòa hợp, nếu hòa không được, thì anh không đánh lại, nếu anh không đánh lại-tức anh thiện, mà người ta cứ đánh anh, tức nó bất chính, anh chính, Trời sẽ xét chọn anh chứ không chọn nó. Vì Thiên Đạo Ta đâu có dạy dùng ác và ngược qui luật tiến hóa là đắc thoát Luân hồi; nếu có, cái ác bao giờ cũng kình chống điên loạn cái thiện, với những thủ đoạn thâm độc, tàn ác, đê tiện. Lại nữa, còn sự thông linh, xem Ta dạy thế nào nữa…
Thiên Hội của Ta là Bất Tử, nó là hiện thân của Thiên Đình nơi trần thế và trên Trung Giới; giả dụ nó có suy, Ta làm cho nó lại thịnh, nó đổ, Ta sẽ xây lại, chứ sẽ không thể không có! Nên, Thiên Hội là Bất khả xâm phạm. Có thể thay Thiên Tử, các quốc trưởng, bỏ phế quốc trưởng, Thiên Tử -nhưng cấm bỏ diệt, phá bỏ Giáo Triều. Kẻ tuân theo Giáo Triều là Hiền tài, biết Luật. Kẻ không theo, phải xét lại mình có chính không. Mình đúng mà mình không chính thì cũng như không! Mình sai nhưng mình chính, thì vẫn còn luân thường nền tảng, tức biết đường tiến hóa. Kẻ tạo phản, là chống Giáo triều, một là bị truất ngôi vị, thay khác, nếu làm loạn, cả dân Thánh Đức sẽ đánh bắt, nếu gây họa tợn, Ta sẽ bắt về sớm, trị nặng. Tài có cao đến mấy, sức mạnh ở trần có to đến bao nhiêu, cũng chỉ bằng cái hắt hơi tạo bão, tạo họa từ trên cao mà thôi. Ta sẽ bắt hồn nó về, dạy, chạy đâu cho thoát…
Đôi khi, có thể Ta có thể dùng đám tà, để thử thách Nhân loại Chính, Hiền tài, để thúc đẩy tiến hóa. Nên phải biết, phải hiểu cuộc chơi của Thượng đế thế nào…
                                        Cha đã thử thách, dạy Ta:
                                        Cho ô, cho lại, cho bầm
                                        Cho cay, cho nhục, oan lầm đớn đau
                                        Cho say, cho tỉnh, tình sầu
                                        Bạc đen đời đọa nhàu nhàu nát tâm
                                       Để rồi đường đến chính chân
                                       Để rồi bài học xanh mầm thế gian
                                       Học bài tu đạo là an
                                       Để thành Thiên Thánh hàng hàng các con
                                       Nay Ta dạy, thử vuông tròn
                                       Muôn năm đều thế lên đường về  quê…
Thiết nghĩ rằng, đến cả đứa trẻ con thời Thánh Đức cũng sẽ biết Luật Trời, tự giác hoàn toàn, toàn tâm toàn ý mà tu luyện, học hành, tiến bộ, nhẫn nhịn, nhẫn nhục, chứ chả dại gì đấu đá bất chính, tranh dành vô minh, để lãnh quả xấu như người của các thời đại xa xưa.
Đó là Ta dạy về Hiền tài và tu luyện. Đã là hiền tài, phải đau đáu một mục tiêu là: Làm thế nào để mình và cả xã hội của mình, thời đại mình thoát khổ? Làm thế nào để cho cả xã hội được no ấm, thậm chí sung sướng, đủ cả dục lạc và vật lạc, nhưng cũng đắc thoát Luân hồi?...
Khó. Nhưng đó là Chính Đạo của Ta,  các con phải làm bằng được, được lâu, lâu dài, dài cho đến hàng vạn vạn năm…
Nay, nói về Hiền tài như vậy.
Hiền tài muôn đời là Nguyên khí của Thánh Đức.

                                  NÓI VỀ TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐỒNG

Đại Đồng là một xã hội rộng lớn vĩ đại, thì cần phải có chủ thuyết thực tế và con người cao đẹp của xã hội đó. Trong lịch sử Nhân loại, chưa bao giờ có Đại Đồng-có một Chính phủ Toàn cầu sáng đẹp, có triết thuyết xã hội đúng với định lý Vũ trụ. Nên chúng ta đang vào một thời đại tiến hóa cao nhất, cả về tâm linh trong lịch sử nhân loại.
Thiên Hội tổ chức ra Liên Hiệp Quốc gia Thánh Đức. Thiên Hội đứng trên và lãnh đạo Liên Hiệp Quốc gia Thánh Đức ( còn gọi là Hội đồng Các Địa phận trực thuộc và nằm trong Hội đồng Thánh Đức Tối cao của Giáo Hội).
Muốn có Đại Đồng, phải có tư tưởng của tất cả chúng ta đại đồng, đồng lòng.
Chúng ta biết rằng, chúng ta suy nghĩ thì có hình tư tưởng. Nên quốc gia, dân tộc, khối người, sắc tộc, tôn giáo….nó có hình tư tưởng, mang ý định, khát vọng, tâm lý dân tộc quốc gia, tính cách bản vị, lối sống khối người…khối tư tưởng tập thể đó rất ghê gớm, sức mạnh chuyển núi dời sông. Nếu như các khối người ấy xấu, thì mức độ ảnh hưởng rất xấu, và ngược lại. Khi chúng ta xuất hồn bay lên cao, sẽ thấy điều này: Các dân tộc có đạo đức, thì phía trên cao, nước họ, sẽ có khối tư tưởng-vía sáng hơn so với nước có dân chúng xấu. Thành phố đông dân lao vào tìm kiếm lợi danh, tranh đấu, tham lậu…thì trên đầu nó, khối hình tư tưởng rất đen…
Ta đã nhiều lần tẩy vía cho trái đất, nước Việt, Hà Nội, Sài Gòn, nước Trung Quốc, rồi đánh thông nhiều lần các kinh mạch đất nước, thế giới, thông cả trục Long hoả Trái đất-với mong muốn là làm giảm tối đa sự khảo đảo và tan vỡ của trái đất, sự mất mát cho loài người trong 2012. Vì mức năng lượng càng xấu, thì khi khai Long càng bị khảo đau dữ.
Cho nên, trách nhiệm của chúng ta trong muôn năm sau là làm cho tư tưởng trên bầu hành tinh trong sáng, thanh cao. Muốn có Đại Đồng, thì phải có hình tư tưởng Đại Đồng bao trùm Nhân loại. Mỗi chúng ta phải không được phân hóa, phân biệt, kỳ thị quốc gia, dân tộc, tín ngưỡng, văn hóa, thấp cao…Phải bỏ hẳn mọi sự kỳ thị, hằn học dân tộc, chia rẽ sắc tộc, hận thù dân tộc, hội nhóm, tôn giáo….
Trong tương lai, phải hòa máu các sắc dân để có giống dân Thánh Đức, đồng thời hòa văn hóa, tăng cường giao lưu qua lại, du lịch, bao bọc nhau và hòa huyết thống, gien, để có chung bản vị tư tưởng, màu da, bản tính, trách nhiệm với nhau, thương nhau, thông cảm với nhau; mặc dù có thể chấp nhận bản sắc, trình độ tiến hóa cao thấp, chung riêng. Về tâm linh nhất thiết phải hợp nhất tôn giáo, thành hòa đồng tâm linh đến tối đa. Không cho hình thành các giai cấp, các tầng lớp có tính riêng biệt về mức độ tiến hóa tư tưởng và hưởng thụ. Không có gì cao hơn, quý hơn là sự tiến hóa về tu luyện, đó là mức đánh giá cao quý. Tất cả phải chung tiếng nói và trình độ nhận thức xã hội. Tiếng Việt đa thanh sắc, thanh vị cao sáng, sẽ được chọn để phổ thông toàn thế giới.
Với các kiểu người, hay dân tộc có tính tham hiểm, hung hăng, sẽ phải chỉnh trị, tự chỉnh trị ngay, nếu không sẽ có lúc bị hủy diệt, vì tính đồng thanh và luật Nhân quả. Phải loại bỏ dần các loại gien ích kỷ, hung hăng, nóng nảy, thích chiến tranh, tranh dành, đấu đá, thích thị quyền, tham ác, đố kỵ, hiểm độc. Các kiểu người lai giống với các sắc dân ngoài hành tinh tiêu cực, sẽ phải sửa gien xấu dần, để thích ứng với Ta. Nếu không, Ta cảnh cáo, sẽ dùng quyền phép hạ triệt loại gien này trong tương lai.
Chúng ta phải hiểu rằng, tu đạo là tu phần vô vi, linh hồn tiến hóa, cõi vô hình trong bản thể, nhưng sau rồi cũng làm cho xác thể tiến hóa theo. Xã hội chính là phần xác thể của Đạo, nên tu luyện cá nhân phải gắn với cả luyện xã hội, xã hội nhân loại chung. Linh hồn mình muốn sáng, thì mình vừa luyện cho nó sáng, và xác thể mình cũng tiến hóa theo, rồi nó ngược lại tác động trở lại giúp trợ cho hồn mình tiến thêm, đó cũng như là xã hội vậy. Vì hồn đâu có ngoài vật, nếu hồn ngoài vật, thì chả bàn làm gì nữa. Hồn tại tâm, tâm là vật, vật là tâm. Mỗi một tế bào hữu vi là có linh hồn, có cả vũ trụ trong đó rồi, chia ra, thì các phân tử cấu tạo từ nguyên tử, nguyên tử tạo lên hồn vía, nếu nguyên tử hồn vía sáng, thì xác thân sáng. Tế bào xã hội là các cá nhân, linh hồn xã hội là Giáo Triều, Ta và Linh hồn các chúng sinh có xác tại thế. Nên, linh hồn chúng ta hòa đồng, tốt, thì mới có xã hội hòa đồng, tốt, cao đẹp. Đó là cái Lý phải xây Thiên Đường có tính Không ở cấp 7 Thiên Pháp đã dạy vậy!
Mâu thuẫn chủ yếu trong thời Đại Đồng sẽ không phải là mâu thuẫn giai cấp, người bị trị và kẻ cai trị, người giàu và kẻ nghèo, văn hóa, tôn giáo nữa, mà sẽ là mâu thuẫn giữa tiến hóa và chưa tiến hóa, là nơi còn lạc hậu với nơi phát triển cao hơn, giữa quốc gia thành viên đã khá, với nơi còn yếu kém-Nhưng mâu thuẫn đó không phải là mẫu thuẫn đấu tranh, tranh dành sống còn, mà là cái đấu tranh trong bản thân, để giúp nhau, thúc đẩy nhau nhanh tiến lên; thậm chí tôn trọng, nhưng cũng phê bình chân chính, để giúp nhau tiến bộ, như trong một cơ quan, đồng môn, hay trong một gia đình vậy.
Có tư tưởng Đại Đồng, có lý luận, có xã hội, nhưng còn phải luôn luôn giữ được cái tâm công bình, bình đẳng, thì mới có Đại Đồng lâu dài được. Giáo Triều, Thiên Tử phải là trung tâm đoàn kết. Các khu vực phải tôn trọng nhau, cả về bản sắc và trình độ tiến hóa. Không có chuyện kỳ thị, ấu trĩ tả khuynh, hữu khuynh trong nhận thức tiến hành công việc chung. Phê bình, tránh chỉ trích, miệt thị, đố kỵ, thiếu chân thành. Phê bình phải cao thượng; phải cao thượng dân tộc, cao thượng quốc tế. Không vì một câu nói, một sự không thông nhau, một ý kém, mà quay ra đấu nhau, gây chia rẽ đoàn kết Nhân loại. Phải hết sức công bình và dân chủ, đoàn kết, hiếu thảo với nhau. Ta đã nghĩ ra cách điều tiết cân bằng ngôi vị Thiên tử luân phiên, các trực ban Phương đạo và quốc gia luân phiên, để quốc gia nào, Phương đạo nào cũng được có quyền công bằng làm Thiên tử, quyền điều hành Thánh Đức, không còn tâm lý dân tộc nọ, quốc gia nọ lãnh đạo, đì nén, sai khiến, lên lớp, tranh dành, hay khinh miệt dân tộc, quốc gia khác. Ai cũng có cơ hội ngang nhau, không ai đứng trên ai, cao hơn. Dân tộc này không phải là Thiên Tử, dân tộc kia không phải là nô lệ. Của cải, tài nguyên chia đều, chỗ nào có, phải phân chia cho chỗ không có, trao đổi, quan tâm lo cho nhau, như anh em trong gia đình, sẽ không còn cảnh xâm lược, bóc lột, tranh dành nhau vì tài nguyên, của cải.
Về sắc tộc và máu huyết, Ta cũng có cách chia đều, phổ độ, giao hòa…để sau đây mấy ngàn năm, mấy vạn năm, tất cả chung máu chung huyết thống, khỏi phải lo mất vị, mất dòng, được mất hơn thua. Tất cả là của Ta, theo Ta, giữ cho Ta là giữ cho toàn nhân loại, tất cả vì một nền Thánh Đức miên viễn lâu dài, hầu mang lại no ấm bình yên muôn thủa cho các con!
Kẻ hung sùng phá ngang, chống Ý Ta, tất sau sẽ cho quỉ ma thưởng quả cho đúng đạo! Kẻ làm theo, sẽ được tất cả.
Câu khẩu hiệu chính của Đại Đồng:  “Hãy coi cả thế giới của bạn”. “ Hãy đối xử với tất cả như chính với bạn”
Hãy coi cả thế giới là của mình, thì không có tâm lý tranh dành, hơn thua, cao thấp nữa. Đó tạo ra tâm Trung Dung, bao trùm. Người giác ngộ, hoặc đắc đạo, thì hiểu đó là tâm Không. Coi mọi sự cả thế giới vốn dĩ như thế, là thế, vòng tròn Mâm ấy, mình chỉ là một đốm nhỏ, nhưng trên cao, hoặc ở trên đó, nên sinh tâm không phân biệt. Thứ nữa là vì vốn nó là như thế, ai cũng có phần, có quyền và tâm toàn thể làm cho mình có cái nhìn toàn triệt, bao trùm, bao dung, để sinh tâm bất tranh.
-Hãy đối xử với tất cả như chính với bạn: Nếu như coi muôn vật, chúng sinh, con người, người khác, như chính mình, là một phần của mình, hoặc ít ra họ có lý trí, linh hồn, là một sinh thể, và chúng ta đã là họ ở cấp tiến hóa đó…thì sẽ sinh tâm công bằng, công bình, tôn trọng tất cả, là tất cả. Nỗi đau xác thể của con kiến, không khác nỗi đau của mình; nỗi đau của cái cây khi bị chặt phá, không khác mình. Nhiều câu chuyện sinh động về rắn vào chùa tu, hiền lành và có đạo, lương tâm…thế thì họ cũng như chúng ta, nhưng ở cấp tiến hóa thấp, nhưng biết đâu, có linh hồn chúng ta do sai nghiệp, mà đầu thai, hoặc đọa vào cảnh số thế thì sao? Cho nên, không khinh miệt cả con chó, con mèo, con gà, nó bẩn, mình có bẩn không? Tôn trọng chúng và người khác như chính với mình, thì phải làm gì? Còn phân biệt, tâm còn sinh nghiệp, không chấp vào các thứ đó, mới đắc thoát. Đây là bài học rất quan trọng cho người tu luyện đạo.

               NÓI VỀ SỨC SỐNG TIỀM TÀNG VÀ XÃ HỘI SINH HỌC
Con người là một sức sống vững bền về sinh học nhất trong các cảnh tiến hóa.
Sức sống đó biểu hiện ở sinh lý là chính. Trong đó có tính dục, tính ăn, các loại trao đổi chất.
Nếu con người mà mất đi tính dục, tính ăn, trao đổi chất,  thì thế giới này sụp đổ ngay! Không còn tình yêu nam nữ, sinh sản, thì Cha chẳng khiến Ta xuống đây làm gì. Ta đến, trước hết là sứ giả của tình yêu và sức sống muôn đời của Nhân loại, của sự trường tồn của cấp tiến hóa này. Cấp con người, đó là một cấp, để các mức tiến hóa thấp hơn đầu thai làm người, rồi cứ thế mà tiến hóa lên cao hơn, trở về. Thượng đế đã mất công hoàn thiện sáng tạo ra thân mạng chúng ta đây, hết 800 triệu năm, tức vô cùng lâu. Tất cả là hoàn thiện! Thân xác con người là một sáng tạo hữu vi tuyệt vời nhất của Tạo Hóa Toàn năng! Trong đó, có tính dục, tình yêu trai gái, sự sinh sản.
Cái dâm của chúng ta, là cái dâm của Thượng đế. Nghe nói xưa kia, Mẫu Vương còn hóa thân xuống trần, dạy về giao phối cho một ông vua ở Trung Quốc.
Chối bỏ, hoặc mất tính dâm–tức là tính dục bản năng, anh đã là người khác! Mất tính dục, anh đã đánh mất sự tự nhiên cao nhất của một xác thể, anh một là không bình thường-tức bệnh lý, hai là anh đã tu đến trình độ cao, làm mất bản năng sinh lý.
Nhưng khổ một nỗi, càng tu khí công cao cấp, tính dục càng dồi dào, sức sống càng cao, mức năng lượng dục năng và sức khỏe tình dục càng tốt! Thế thì phải làm thế nào?
Khi mình chưa ngộ, thì bị nhúng trọc dâm; khi mình tu luyện cao rồi, thì làm chủ nó, chủ động nhúng vào nó mà tâm bất trọc. Nhưng tâm bất trọc trong sinh hoạt tình dục, thì mất thi vị đi, hóa ra anh chỉ làm cái công việc giải quyết sinh lý hay sao, nếu thế thì dùng công năng có thể diệt được, chế được nó. Rất khó. Cho nên, duy trì tính dâm và thực hành tính dục là tất yếu, nó làm thăng hoa cuộc sống này, nó là tình yêu và sức sống của Thượng đế-vì Thượng đế không là đàn ông hay đàn bà, không phân giới tính, nhưng tính trạng thì là nguyên lý hợp nhất, vậy muốn thành Thượng đế, phải biết hợp nhất âm dương, trong tu luyện Thiên Pháp và trong cuộc sống. Trong cuộc sống, thì anh phải hợp nhất với vợ anh, để không sinh nghiệp. Nếu như không đáp ứng được sinh lý, sẽ sinh nghiệp: Đau khổ, khát thèm, ngoại tình, dằn hắt, đè nén, bệnh tật…Vậy thì bạn phải tiến hành thực hành làm sao cả hai đạt được mức thăng hoa cao nhất, để hòa khí, hòa tâm, hóa Không tính ngay trong tính dục của mình-Tức luôn luôn thỏa mái hoàn toàn.
Ta nhắc lại, Thượng đế vốn không sáng tạo thừa cái gì! Vấn đề là ta có biết cách sử dụng nó, để tiến hóa không. Ta không bỏ, mà ta tiến hóa, người bỏ, mà người không tiến hóa hơn ta, ấy là cái cao của ta hơn người! Nói thế đủ hiểu.
Bên Mật Tông có nguyên lý Nam Nữ song tu, rất hay. Đại Nhật Như Lai chính là Thượng đế, tuy nhiên, không nói hẳn ra, chưa nên nói rõ ra, vì lúc đó chỉ cần thế, nên tu thì chưa biết phải về đúng đến sao Bắc Đẩu mới là nhập Trung cung Vũ trụ. Và hiện các khái niệm, cách tu đã rườm rà, khó hiểu, khó phổ giáo hơn chúng ta. Mạn đà la là hình dung các ngôi Thiên Thượng, nhưng chưa có đủ Lý đạo như Thiên Đạo Lý như của chúng ta. Mật tông Tối thượng vốn là pháp phát triển cao của tinh hoa Blamôn, kết hợp đạo pháp của đạo Phật, nhưng chính Pháp tu tại đời là của Blamôn. Nhưng chính Blamôn lại không có khế ước xã hội-tức triết học chính pháp. Tu đến trình độ Mật Tông Tối thượng đã đắc một vị phật tại thế rồi.
Nhưng nay Ta dạy Toàn giác, tất cả, về hết, thành Thượng đế hết chứ không thành Phật!
Trước hết, chúng ta là cả xã hội sinh học, không phải là máy móc, không phải là một bộ phận xã hội, mà là toàn thể Nhân loại với toàn bộ sức sống của nó.
Chúng ta có Chính Pháp và cả Huyền Pháp. Huyền Pháp đã bao trùm cả Mật tông, Ấn tông, Lão tông, Phật tông, Thiên Chúa tông rồi. Còn Đạo Pháp tức Thiên Kinh, Trí Kinh… thì hơn mấy anh khoa học, thiên văn, vật lý, duy vật…Chính Pháp thì hơn mấy anh cộng sản duy vật và mấy cậu tư bản, cộng với cả mấy anh Nho giáo rồi!
Nay, Ta phân thân làm ba. Ta là Nho-Ấn-Phật,Việt ( gốc Văn minh Phương đông)…thì có gì là lạ?
Mật, Lão tông tu đạo thì cũng có trừ dâm, nhưng tu cao có phép chủ động nhập dâm. Thiên chúa tông không luyện đạo. Phật tông chính gốc thì bỏ dâm. Ấn tu cao, thì cũng bỏ dâm. Mấy anh cộng sản, tư bản, đều là đời cả, nói là đạo đức, mà dấm dúi cả. Các tôn giáo chả ai tránh được ăn.
Nhưng đến thời Mạt, Ta thấy Thượng đế trong họ đều dâm, tham hết, Ta cũng dâm luôn, không mấy người thoát được. Tu sỹ các tôn giáo nhiễm lậu dâm tham không ít, mà Mật Tông thì dâm từ đầu đến cuối mà lại không! Nên họ đắc đạo nhiều ngay trong thời Mạt! Trong khi chùa đã biến thành nơi kinh doanh tâm linh, hưởng lạc, buôn thần bán thánh, cầu lợi danh; trường dòng đã biến thành ổ điếm cho tu sỹ hành dâm…
Vậy, chúng ta phải biết cái gọi là dâm, vốn chỉ là một điều kiện cần cho sự sống, và biến nó thành một thành phần tu luyện, là điều cần-đủ trong tu luyện, là rất quan trọng. Ở đời này, vốn dĩ anh nghĩ nó là gì, thì nó là thế. Ở phong tục tập quán này, có khi cho dân phóng dâm, vẫn không là dâm, ở phong tục khác, bế dâm, mà vẫn dâm! Vào chùa, tránh, bỏ dâm, không thoát luân hồi được, ở đời, không bỏ dâm mà tu thoát luân hồi được, thì chọn đường nào hay hơn?
Điều quan trọng nhất, là dùng nó chế nó, không làm nó loạn, không cho nó làm đời loạn, ấy là dĩ độc trị độc vậy; dùng nó làm chủ nó, thì hay hơn là thả nó, hoặc không dám nhìn thẳng vào nó để dắt nó.
“Dâm pháp” là một bí pháp khó, “Tình yêu pháp” là nghệ thuật hay, khó nhất trong cái khó, hay nhất trong cái hay của con người. Tình yêu là một sự huyền diệu, một Bí nhiệm Tuyệt diệu muôn đời bí mật và mới-mặc dù nó cũng không có gì cũ bằng. Nó là bản hòa ca âm dương và tình người cao nhất của con người với con người. Nhưng làm thế nào, mà bắt đầu, đến kết thúc đều không gây đau khổ cho con người? Tình yêu là cứu cánh, để thăng hóa thành tình yêu Nhân loại và khát vọng đem hạnh phúc cho tất cả mọi người để an lạc, hạnh phúc viên mãn, rồi trở về với Cha?
Có một phương thuốc chữa cho vấn đề đó là: Phải coi người mình yêu, người đối ngẫu là một đối tượng của Thượng đế cho mình, để mình luyện Đạo!
Con vật nó có dâm tính cao, thú tính mạnh, nhưng chúng ta khác mỗi nó là dùng dâm, thú ấy biến ngay thành Đan, Đạo, Tiến hóa, tức chúng ta hơn con vật mỗi cái Lý trí thôi. Không có Lý trí, sao có Đạo được. Chúng ta vốn dĩ đi từ thú tính lên thiên tính. Bỏ được thú tính, lên thiên tính là phạm vi con người.
Chúng ta phải học từ cái sơ khởi đến cái vi diệu của nó, mới có thể đắc đạo được, còn cứ nhếu nháo, không hiểu rõ bản chất của nó, hoặc đứng ngoài nó, khinh bỉ nó, tức đứng ngoài cuộc sống này=ở nghĩa toàn thể, sợ nó, thì không thể nào đưa nó hoàn Không được!
Giáo dục giới tính trước kia chủ yếu giới thiệu về tính dục, tình dục…nhưng mấy ai đã dạy phương pháp chế dục, định dục, diệt dục, biến hóa dục, thăng hoa thành Không dục? Giáo dục, tu luyện tốt, thì xã hội không còn cảnh đau khổ vì dục, không tranh cướp vợ chồng, không loạn luân, dâm đĩ bán thân, không có tu sỹ khát dâm phá luật, không cảnh đời khốn nạn vì dâm dục.
Sau này cấm phương pháp Nam Nữ song tu ở ngoài hôn nhân. Mà Vợ Chồng tính dục song tu là cứu cánh cho cả xã hội Thánh Đức! Người học xong Thiên Pháp cao cấp, mới được lấy vợ chồng. Dùng thần thông, thân tâm chế phục nhau, thì làm gì còn đau khổ.
Về cái ăn sinh học: Phải no đủ, đừng nói chuyện đói mà luyện đắc Đạo! Vì sao? Tu đến cao tột, mới làm chủ được cơn đói, mà cứ đói thì tu cao đến mấy cũng mệt! Phật Tổ đã từng bỏ lối khổ tu để đi vào Trung đạo, mới đắc đạo. Rồi Pháp môn của Phật cho tu sỹ đi xin ăn, tức dùng tha lực ngoại của chúng sinh để tu luyện nội thân, tức sau đã hóa thành cầu lợi, có nói, nếu ai cúng dường cho tu sỹ nhiều, sau có nhiều lợi ích, căn đức, công quả…nhưng còn người cho thứ đó, họ đâu có tu?...Sau này các cảnh chùa nhiễm lậu như thế nào, chắc các vị đã biết-chúng sinh đến cúng để cầu lợi, vì họ chỉ biết cúng nhiều cho tăng chúng, cho Phật, thì họ được giàu sang, lên quan, kể cả buôn lậu may mắn! Có đứa đi chiến trận giết người xong, về đi chùa xa nghiệp, rồi lại đi giết người tiếp.
Các tôn giáo khác đã đều thành đấu đá nhau, chiến tranh, thù nghịch, được mấy chỗ làm từ thiện, làm theo Thượng đế. Ta thấy tôn giáo nào cũng giàu cả, rất giàu, tức phải có tiền mới có thể duy trì đạo phát triển, tồn tại. Thế là cái ăn rất quan trọng.
Bây giờ, không phân tôn giáo nữa, mà cả xã hội thành trường tu, nhà nhà thành chùa, người người là tu sỹ, thì cái ăn vẫn là quan trọng, chớ khinh thường sự ăn. Điều quan trọng của chúng ta là làm cho ai ai cũng no ấm, nhưng no ấm ai ai cũng như nhau, để thế giới không còn tranh đấu, tranh dành, chiến tranh, bạo lực…
Khó nhất là từ sự ăn mà sinh ra danh, lợi, tranh; kẻ không ăn được nữa, thì chả tham cái gì, có khi vội đem cho hết cũng không kịp!
Để duy trì xã hội sinh học, trước hết về mặt xã hội, cũng như gia đình, phải lo đến cái ăn cho mình và cho người-không thể khác. Muốn có, phải có thiết chế kinh tế tốt, phương pháp lao động tốt, phương tiện lao động tốt, biện pháp phân chia tốt, biện pháp giữ gìn, chế biến tốt, cuối cùng là sự thưởng lãm cái ăn tốt.
Làm Thiên tử, hay bất cứ một công dân nào, cũng phải chú ý điều này, để cho Thánh Đức an vui, an và lạc.
Đó là Ta nói về hai khía cạnh quan trọng nhất của sinh học tính-không bỏ được của con người là tính dục và tính ăn-mang tính xã hội sâu sắc; cả hai điều này có thể đưa xã hội, cá nhân đến an lạc, hoặc là đau khổ. Hai cái này chưa dứt điểm thỏa mãn hoàn Không, tức cân bằng, thì không thể có xã hội tính Không và con người toàn thể thoát Luân hồi được.
Không biết ác, tà, dâm sai, tham, khổ…thì sao biết thiện, chính, thanh cao, tha nhân và an lạc. Nên chấp vào cảnh nào, thì ở cảnh đó mà tu thoát cái đó, chứ đâu có tìm chạy đâu xa.

                                         NÓI VỀ TU XÓA NGHIỆP
Các sao là nơi tích lũy năng lượng của thể Vía và linh hồn.
Các sao vốn dĩ là  các cửa hút và nạp năng lượng, đồng thời là nơi lưu giữ năng lượng, giữ trấn năng lượng, tạo năng lượng, đó cũng là nơi lưu trữ các trường thể vía của chúng ta-Khi chúng ta bỏ xác, thì linh hồn thu về trục dọc trung tâm, thu các trường thông tin của các sao về trung tâm, sau đó, linh hồn thoát ra khỏi cơ thể, mang theo toàn bộ cái gọi là thông tin-trường vía của linh hồn. Như vậy, các sao chính là nơi tụ khí bẩn-vía bẩn của linh hồn. Các sao này có quyền năng quản trị cả khí-vía-tư tưởng…nó dồn cả vào nơi nó quản trị. Đồng thời, các sao này chính là các ông thần lực của bản mệnh mình, các ông này quản năng lực cơ thể, Linh hồn. Mức thông tin vía nơi đó thế nào, thì ông thần lực ở đó hành xử y như thế. Nên vía xấu, hư, đầy ác trọc, tranh tham, dục năng mạnh…thì ông này hành ngược thúc đẩy các nội tạng  thần kinh ở đó thúc cái thân vật lý của chúng ta đòi hỏi chúng ta. Hồn sao vía vậy, vía sao xác vậy, xác sao nghiệp vậy…nên, cái kho này nó sạch, thì chúng ta cũng đỡ khổ về những gì ông ấy đòi hỏi.
Vậy, xét về cái Kho này, thì các sao chính là các Kho lưu trữ tài liệu-trường thông tin của Vía, sau đó, Linh hồn theo mức tiến hóa đã có của đời, lưu trữ trong Vía, để gánh nghiệp tương ứng với cái đã có. Mang theo cái gì, thì sau đầu thai theo mức năng lượng tương ứng với Vía hồn ấy, rồi theo Luật đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, Linh hồn mang theo vía ấy chui vào thai nhi, để Hưởng mức năng lượng Vũ trụ tương ứng, cái thai ấy nó ra hình dạng theo chính cái linh hồn nó có, đến khi nó sinh ra đúng vào cái ngày giờ chuẩn bị cho nó theo mức năng lượng nó đã có, để nó sống và trả cái nghiệp đã có của nó trong quá khứ và hiện tại.
Như vậy, như Ta đã nói về bản chất thoát Luân hồi, trước tiên là vấn đề anh sống tạo vía tốt, tức đừng để các thể thông tin xấu độc lưu trữ vào các Luân xa. Đồng thời, kiên quyết kiên trì diệt vía xấu chủ động bằng cách khai mở các sao, đặc biệt là Thiên Long,  thường xuyên tẩy lọc chúng, tống khí-vía bẩn đi,  thường xuyên xuất vía hồn lên cao, để cho vía xấu rơi rụng, không bám vào được hồn gốc, rồi thường xuyên xả trọc, đảo lộn làm sạch thể vía, dùng khí lực mà xóa tan vía xấu, dùng năng lượng trên cao và năng lượng nội thân dội, xoáy, triệt diệt vía xấu; ăn chay, sống thanh sạch, nghĩ tốt, làm lành, sống nhẫn nhịn, không nóng, không ác, lại luôn từ bi, tâm lành thiện, sống tha nhân, để đồng thanh với Vía Trời, để không tạo ra thể vía xấu và hình tư tưởng đeo bám mình sau này. Cách tĩnh tâm-thiền tịnh, hoặc đem tâm ý về Không, thực ra là cách hay nhất để chúng ta không phóng ý bừa bãi vào không gian, không làm tạo ra các hình tư tưởng xấu, cả đẹp; thực ra không cần, trong một cuộc tiến hóa của Vũ trụ. Trong Không gian, càng tịnh càng tốt! Đồng thời có thể ban tặng năng lượng tình thương-cũng chính là vía tốt-hình tư tưởng tốt cho người khác, kể cả kẻ thù của mình-vì nếu anh gửi cho họ một trường thông tin xấu, hình tư tưởng xấu, nó sẽ bám vào vía của anh kia, sau đó anh ta cũng không được tốt, vía sẽ bám theo anh ta, sau đó theo luật tương cầu, linh hồn sau đó sẽ tìm anh mà bắt cùng trả nghiệp, ví dụ thù nhau kiếp trước, kiếp này đầu thai có khi làm người thân để trả nợ nhau…Đó là họ bắt trả, ngoài ra, mình phóng xuất ý xấu, có hình tư tưởng bẩn trong không gian, sau này hình đó bám theo dội ngược trở lại trong hiện kiếp, trong kiếp sau, trong mức năng lượng của mình, bám lại vào vía mình, để mình gánh nghiệp, đó là Quả Báo là như thế!
Các tôn giáo xưa, bí hiểm về việc này, nay Ta nói rõ hơn. Đồng thời nhận thức này sẽ chứng minh sáng, luận giải bằng khoa học cao cấp trong Lý Đạo.
Cho nên, chúng ta phải diệt vía xấu như đổ nước bẩn, bùn đất ra khỏi các sao trên bản mệnh, đồng thời phải biết đi gom sạch những thứ hình tư tưởng bẩn rác của mình trong không gian, gom rồi diệt đốt chúng; đồng thời phải tạo ra các hình tư tưởng cao đẹp, đại đồng.
Những điều Ta nói đây, đã nói trong các phần lý luận rồi, nay nói rõ hơn. Và Ta đã thực hành hoàn hảo các điều đó. Sau, các vị hãy cứ theo lời Ta nói, tất đắc đạo hoàn nguyên.

                                      NÓI VỀ CÔNG NĂNG ĐẶC DỊ
Các công năng đặc dị như sau, sẽ được Nhân loại tiến hóa hàng triệu năm nữa đạt được, tu luyện thành, theo các phương pháp, thời gian tiến hóa khác nhau. Loài người sẽ đạt được một cách tất yếu-nhưng không phải là thời điểm bây giờ. Sẽ là hàng trăm, vạn, triệu năm nữa. Lúc đó Pháp của Ta không cần đến các cấp Thiên Pháp thấp nữa, nhưng Nhân loại vẫn phải học cách Xuất hồn, về đến Cha và càng cần Cha, kính trọng Cha, Mẹ, Thầy hơn.
1-Phân thân, di chuyển cả thân hình vật lý trên không.
2-Khinh công, đi là là trên mặt đất.
3-Biến không: Dị hình, hoặc biến hình, đây là thủ thuật, nhưng sau này tu luyện siêu đẳng, thì thân vật lý sẽ thay các bon bằng silicon-như trong Thông điệp của các Đấng Sáng tạo đã cho biết.
4-Thành thân silicon, bất tử, bất hoại-tức thành Kim thân vật lý.
5-Thân thể ánh sáng phát quang rực rỡ.
6-Thân thể đi xuyên tường, đất, phép độn thổ, độn nước.
7-Có thể thở không cần phổi.
8-Lấy vật chất và vật thể từ trong không khí, theo phép: Vật tại tâm, tâm là vật, tán tụ chất bằng tâm ý. Dùng thực khí hoặc dùng các chất tinh khí, ít dùng thực phẩm, không còn dùng thực phẩm các bon, ví dụ như thịt động vật.
9-Khiển vật bằng tâm.
10-Tu luyện đến trình độ phát công chữa bệnh, phát nhiệt, phát điện, chủ động điều chỉnh thời tiết, các cơn bão, phá mưa, làm nắng.
11-Làm các trung tâm tiếp nhận năng lượng trên cao, để lấy năng lượng; đồng thời lấy đó làm phương tiện tu luyện, giống như Kim Tự Tháp.
12-Tuổi thọ thân thể vật lý có thể đến hàng trăm, thậm chí hàng ngàn, vạn tuổi-tự lựa chọn sinh tử, có thể thân thể trong suốt. Lựa chọn tiến hóa. Lựa chọn gien, tạo ra các giống người siêu đẳng mà không cần chọn lọc tự nhiên, đó là một giống dân thần tiên, không có gien tính tham lam, hung hăng, cực thông minh, thân thể tuyệt đẹp.
Chú ý: Nhân giống dân Việt rất thông minh, đĩnh ngộ, tính cách hồn nhiên, với giống dân Ấn Độ là chính, tạo thành giống mũi cao, da hơi nâu, tóc đen, thẳng, mượt, mắt đen, sáng và khuôn mắt đẹp, khuôn mặt đẹp, cao khoảng 2 m trở lại, không nên cao quá; dần xóa đi lông tóc râu rậm, nên dùng ít lông tóc; có râu đẹp, nhưng không quá rậm; không nên lùn; các chỉ số cơ học, sinh học cơ thể sẽ tính toán tiến hóa hợp lý với các gian đoạn phát triển lâu dài, hàng triệu năm nữa.
Cấm nhân tạo người, sinh trong ống nghiệm, nhân bản vô tính, sản xuất các bộ phận thân thể, cấm lai người với vật, thực vật, tạo ra giống khác như trên; không cho lai tạo với người ngoài hành tinh-trừ khi họ đến xin gien. Cấm không cho người ngoài hành tinh đóng căn cứ trên trái đất, trừ trường hợp được Thượng đế và Thiên Hội cho phép. Cho các thầy-cũng là anh em của chúng ta trong lòng trái đất lên trên mặt đất sinh sống, đó là quyền của họ và chúng ta phải học họ tất cả mọi thứ cần thiết, đây chính là các vị thầy trực tiếp của chúng ta, cùng các vị thầy khác đến từ các hành tinh thân thiện ngoài trái đất. Cho họ ở một nơi riêng, là cõi của họ và chúng ta có thể đến đó thăm hỏi, học hỏi…
Mấy phần chính như thế về thân mạng con người và tương lai như thế.

Ngoài ra, về mặt sáng tạo, sản xuất, thì như dự báo trong Nhân Kinh, loài người sẽ là siêu siêu đẳng, không thể nói được hết và dự báo hết các sự tiến hóa, sáng tạo kỳ diệu vĩ đại trong tương lai, khi mà con người đã là các Đấng Sáng tạo nhỏ nơi trần gian này! Nhưng, vẫn phải có hai lựa chọn: Thoát Luân hồi, để hết nghiệp trần, lên cao, trở về, tiến hóa theo cách khác; hai là ở lại trần gian, thành thần tiên tại thế, đến hàng trăm, ngàn tuổi, biến thành các Linh Nhân cao cấp, là thần thánh nhỏ, nhưng muốn thành CÁC VÌ SAO TƯƠNG LAI, thì anh phải trở về đã! Lúc đó, cho phép các lựa chọn này.
Nhân đây Ta cấm chuyện các Linh hồn sắp mãn xác già, tìm cách chui vào các thai nhi, để trở lại tiếp làm người, mà không trở về xin phép Ta, Cha, Mẹ, các Tổng hồn. Không được phép trốn kiểu đó, vì thương tiếc trần gian mà chui ở lại, không chịu về! Phải về đã, rồi tính chuyện đầu thai lại hay không. Nếu cố tình chống lời này, sẽ bị khảo đọa. Ta không chấp nhận cách Di hồn chuyển xác như cách cũ Mật Tông Tây tạng đã làm. Nếu ai cũng như thế, thì loạn trần ngay, vì các Linh căn xuống, Cha, Mẹ đã chuẩn bị thân mạng số nghiệp cho họ. Nay tuyệt nhiên không được dùng phép trục hồn chuyển xác như cũ-trừ những trường hợp đặc biệt cũng là do Cha Mẹ chuẩn bị. Thân mạng Ta cũng là như thế, khi xác thể này bắt đầu sinh ra trong mấy phút, Ta mới giáng xuống, theo sự quyền lệnh chuẩn bị của Cha, lúc đó xác này sinh ra không có khóc, chết lặng đi, đến khi Ta xuống, nó mới khóc chào đời. Nhưng xác này được sản xuất, là chuẩn bị sẵn cho Ta xuống, không có người thứ hai, tại nơi đó, vào ngày giờ đó, như tiên tri đó.
-Tương lai là vĩ đại, con người là thần tiên-nhưng càng tiến hóa cao tột, thì càng kính trọng Cha, Mẹ; dù anh có tiến hóa đến bao nhiêu, mà chống Tạo hóa, chống qui luật, thì không thể nói là đắc đạo được. Có giỏi như Tổng lãnh Thiên thần Luxiphơ, kiêu ngạo chống ý Cha, còn bị ném vào hỏa ngục, đọa; tài giỏi thần thông như dân Átlantic, mà kiêu ngạo chống ý Cha, khinh thường Thượng đế, bị diệt cả dân và lục địa. Đó là bài học lâu dài cho loài người tương lai. Nhớ lời Ta nói! Nghe lời Ta nói, trái đất này sẽ không bị thảm diệt trong tương lai, cùng lắm vào các ngươn tiến hóa, Ta sẽ xin Cha đổi số cho mà thôi, có sinh thì có đau, có đẻ thì có mừng vui, đó là tất yếu, nhưng Ta hứa với các con Ta là: Nghe lới Thượng đế đến muôn năm, thì muôn năm các con đều an lành, an lạc, tiến hóa siêu siêu đẳng, bằng không thì ngược lại. Nhưng vì là tất yếu sẽ tiến lên, cho nên kẻ nào chống Luật, tất bị xử thôi, chớ trách Ta không dạy, không báo trước.
Thiên Pháp là vĩ đại, cao, nhưng chưa là hoàn thiện, vì trong tương lai, Ta không cho lập môn pháp mới nữa, có rồi, sẽ bổ cứu thêm; chưa có, các Thánh sẽ bổ sung thêm, Ta sẽ dạy thêm, nhưng cũng không quá hơn các dự báo công năng này. Vào lúc nào cần, đủ điều kiện, thì dạy thêm, cứ như thế, hàng trăm vạn, triệu năm nữa…
Nhưng đây là chương trình Chuẩn, Nền, cố định; các bài có thể chia ra mà dạy một cách khác nhau, nhưng về  cách học thì giữ như thế. Đến cấp cao, sinh muôn hình vạn trạng cách luyện của cá nhân, nhưng chớ để nó tán ra thành các pháp môn, mà tùy căn cơ, trình độ từng người, mà tu luyện cho đến thành mục đích tối cao. Ta nay còn tại thế, mà xác luyện theo vô số cách rồi! Vì ý ở đâu, khí lực ở đó, thì chả còn cách nào cụ thể nữa, nó là Phi thường cách rồi. Đến Phi thường cách, thì sách của Ta thừa, không cần nữa. Đó là Đại học rồi. Nhưng muốn có Đại học, thì phải học từ lớp 1. Sau này Nhân loại thần thông, nhìn đã thông thấy nội tạng, kinh mạch, từ bé đã biết xuất hồn, có thiên nhãn, nhưng vẫn phải dạy họ về Đạo, Lý, rồi tu luyện thân tâm chứ, dạy cách trở về chứ, do đó, muôn đời, đã là con người sống trên trái đất này, thì vẫn cần học Thiên Pháp. Không học Thiên Pháp, sẽ có khi hỗn loạn loài người, khinh thường Thượng đế, chết bỏ xác không chịu về Thiên Thượng, thì như thế anh dù có thần thông, nhưng đâu có đắc đạo hoàn nguyên.
Cho nên, nhiệm vụ của loài người xuống thế đầu thai trong Thánh Đức là thoát Luân hồi, đây là nhiệm vụ Tối cao!

                                           NÓI VỀ DẠY TRẺ
                                                Thơ ghi nhớ:
                                    Là ai, món nợ thế nào
                                    Cần gì, không được làm sao cõi trần
                                   Quyền gì, phải học thành Nhân
                                   Tự chủ Sáng tạo Tiến dần lên Thiên…
                                             1-Nó là ai: 2 thể.
-Nó là con Trời, có gốc quê ở chòm sao Bắc Đẩu, linh hồn nó đầu thai xuống trần gian, qua nhiều đời nhiều kiếp để học hỏi, trần gian chỉ là trường học mà thôi, rồi nó phải trở về. Muốn trở về nó phải hoàn tất quá trình tiến hóa ở cuộc đời này.
-Thân xác bản thể của nó chỉ là mượn giả tạm để học hỏi ở kiếp này mà thôi. Nhưng phải chăm lo và kính trọng Thể xác, bản mệnh, vì tất cả cũng là Thượng đế tạo ra như thế, muốn thế.
                                            2-Nó nợ gì: 5 nợ.
-Nợ Trời: Vì Thượng đế sinh ra Linh hồn nó, cho nó một trí tuệ, biết suy nghĩ và tồn tại qua hàng tỷ năm, đã có tỷ tuổi. Trả nợ Thượng đế bằng cách Tu luyện để về quê xưa và sống như Thượng đế với con người, muôn vật: Đó là yêu thương tuyệt đối, không phân ranh giới và bao trùm tất cả, là tất cả. Tuyệt đối vị tha, nhân ái, độ lượng và giúp đỡ mọi người vô điều kiện.
-Nợ Bố mẹ trần gian và tiên tổ: Bố mẹ trần thay mặt Thượng đế sinh ra nó tại trần gian này, thương nó như Thượng đế thương chúng sinh. Tiên tổ tạo ra gốc nòi dòng giống. Nên phải kính trọng, tôn thờ bố mẹ trần và tổ tiên.
-Nợ Đất mẹ: Đất đai nuôi sống con người, uống nước là máu, ăn đồ ẩm thực là thịt của Mẹ đất. Phải sống cho sạch sẽ và không làm bẩn, phá hại đất đai, môi trường, không để đất Mẹ đau.
-Nợ Chính mình: Vì mình đã sống qua nhiều kiếp rồi, có nợ với mình vì mình đã từng sống có nhiều nghiệp ác, nợ trần gian, nợ không gian, nên mình đã mắc nợ với Linh hồn gốc của mình. Trả nợ bằng cách không ngừng ban phát tình thương, sống hy sinh vì người khác và bản thân phải lành thiện, không được làm ác, nghĩ ác, hại người, hại vật.
-Nợ Nhân loại: Vì Nhân loại cùng gốc là anh em của mình, đều là do Thượng đế sinh ra, nên Nhân loại chung đều là như nhau, không phân biệt. Phải sống Công bình và Bình đẳng, đem hạnh phúc chia đều, đem An lạc hoàn toàn đến cho Nhân loại. Hiền tài là Ý chí của Thượng đế ở Trần gian để cải hóa xã hội, nên phải kính trọng Nhân dân và kính trọng Hiền tài.
                                   3-Nó cần phải làm gì: 7 điều cần.
-Cần phải ăn để nuôi lớn bản thân. Vậy phải ăn, ăn sạch.
-Cần phải khỏe mạnh, thân thể tươi đẹp. Vậy phải luyện tập thể thao và học Huyền công.
-Cần phải học để trở thành các nhà Thông thái như Thượng đế.
-Cần phải sinh hoạt, sống có khoa học và ngăn nắp, sạch sẽ, để có lối sống thanh cao và tác phong Thông thái.
-Cần phải lao động, lao động là vinh quang, để phục vụ bản thân và xã hội, không trở thành kẻ ăn bám, hại người khác.
-Cần phải học Thiên Pháp để tu luyện có thần thông siêu đẳng, bay lên Trời cao khi còn cả thân xác và bay lên Trời cao khi bỏ xác trần, để về với Thượng đế-Vị Cha già đang mong con về!
-Cần phải Nhẫn nhịn, Vị Tha, Cao Thượng: để trở thành Hiền Nhân.
Nhẫn nhịn là biết kìm chế mọi cái bực, ác, khổ, nhục nảy sinh, để không thành nghiệp xấu. Nghiệp là gì: Đơn giản là nó là thứ phải gánh trên đầu qua các kiếp vì tham, ác, nóng nảy, thù hận, đố kỵ, ghanh ghen, hồ đồ, gian dối…
Vị tha để thương yêu mọi người, không thành nghiệp xấu.
Cao thượng là trở thành Thượng đế, cao lên và bao trùm muôn vật, Nhân loại, sống tha thứ và Minh triết.
Hiền nhân: Là người hiền lành, tâm tính thuần lương có đạo đức, tôn trọng người khác, thiện như một ông tiên, bà tiên tại trần gian.
                                        4-Nó không được: 9 Không.
Không được làm 8 điều Không phạm và cần làm một điều Không của Thiên Pháp.
            Không: Bỏ-Chiếm-Tham-Nói-Quên-Gây-Ở-Nghiện-Ngừng
                                          5-Nó có quyền: 7 quyền
-Có quyền tự vệ chân chính để bảo vệ bản thân, hợp pháp luật.
-Có quyền Sống công bằng, bình đẳng, công bình như người khác.
-Có quyền về việc làm, nhà ở, gia đình, con cái và tài sản cá nhân của riêng mình, nhưng không vượt người khác.
-Có quyền về lối sống riêng mình và tính cách riêng, tự do hoàn toàn trong khuôn khổ gia đình và xã hội. Nếu vượt qua các khuôn khổ đó, nó sẽ bị mất tự do, như con cá nhảy lên bờ.
-Có quyền sáng tạo Không giới hạn, phục vụ tiến hóa của Loài người và Thượng đế.
-Có quyền phục vụ và kết bạn với mọi người. Không phân biệt văn hóa, dân tộc, màu da sắc tộc.
-Có quyền dân chủ tại cộng đồng, được nêu ý kiến; có thể tâu ý kiến lên Quốc Vương và Thượng đế, dù nó còn bé hay đã lớn khôn.
                                            6- Nó phải học: 4 phần.
-Học Bản thể Tự nhiên và Vũ trụ Toàn thể: Tức là Thượng đế. Qui luật Vũ trụ và bản thân nó. Các mức năng lượng Vũ trụ và bản thể nó.
Gồm: Dần học toàn bộ Hệ thống Đạo Pháp-Chính Pháp-Huyền Pháp theo các cấp học từ thấp đến cao. Kết thúc lý thuyết ở cấp học thứ 3: Phổ thông. Cấp 4 chỉ có học đào tạo nghề và chuyên sâu. Luyện Huyền công thì cả đời.
-Học cá nhân: học mọi thứ để phục vụ tiến hóa bản thân và loài người. Được phép học những gì nó thấy thật cần thiết-nhưng không tạo nghiệp ác cho nó.
-Học nhà trường: mọi phương pháp, tri thức để kích thích trí tuệ phát triển, tiến hóa và biết sáng tạo. Có nghề lao động đúng với tài năng, năng khiếu và sở thích.  
-Học xã hội: Trường đời học mãi, cho đến khi mãn trần.

                             7-Nó phải trở về với Đấng Sáng tạo. Hợp với Một.

-Là một phần của  Thượng đế. Là một tiểu Vũ trụ thu nhỏ.
Đắc Thiên Đạo ngay tại Trần gian này. Học cách bảo vệ Vũ trụ và Thế giới, cải tạo Thế giới này không ngừng.

Đây là 7 Điều qui định về Quyền Trẻ em Thánh Đức-phổ giáo thành các Điều Luật.
-Gia đình phải dạy dỗ, giáo hóa từ nhỏ về các điều này. Muốn làm được thì phải là Tấm gương cho trẻ.
-Nhà trường nương theo cách này để làm các chương trình học tập phù hợp.
-Xã hội cộng đồng tôn trọng, động viên và có các Thiết chế để tạo ra Con người Mới Thánh Đức.
                                            Giáo xử với trẻ em
1-Đừng bao giờ bắt ép nó phải hoàn thành một công việc nào, mà hãy quan tâm và động viên nó hoàn thành công việc, trong khả năng của mình.
2-Đừng bao giờ bắt nó phải kỳ vọng vào ước mơ của mình, trong khi nó chưa hiểu và chưa sẵn sàng vào việc đó.
3-Chơi và học là hai đặc trưng của trẻ; không có giải trí, chúng sẽ già trước tuổi. Khi chúng mất tính hồn nhiên, thì bạn nên buồn hơn là nên vui, vì đó là điều báo hiệu sự khổ đau của chúng trong tương lai. Trong khi chúng ta cần sự hồn nhiên suốt đời để tu luyện và hành đạo an lạc.
4-Không gây áp lực với trẻ trong mọi việc.
5-Không sử dụng bạo lực; không sử dụng trẻ em làm các việc của người lớn.
6-Tuyệt đối coi chúng là các thiên thần nhỏ bé. Nếu coi chúng là các Linh hồn tái kiếp để học hỏi, trước hết là học bạn-tức bố mẹ chúng, bạn phải luyện cho chúng vào đường đạo, thì bạn đã giác ngộ Chân Lý.
7-Không nên phát triển tính tự cao, tự mãn, ích kỷ chỉ biết đòi hỏi, thích cưng nựng nuông chiều, mà nên hài hòa giữa chăm sóc và vui tươi trong gia đình; nếu chúng có lỗi trong gia đình, trong trường lớp, thì trước hết phân tích cái sai, cảnh báo điều sai, rồi mới xử phạt nếu chúng không sửa.
8-Tuyệt đối không miệt thị chúng, chửi nhục.
9-Khi chúng hờn dỗi, không nên nịnh chúng ngay, mà làm cho chúng nhanh chóng xóa cơn bực tức, bằng cách thay đổi công việc, hiện trạng, để thay đổi trạng thái tâm lý, để chúng quên giận; sau đó, tùy cơ sẽ vui hòa. Trẻ em thường mau lành, không giận lâu; hầu như không biết hận thù, đố kỵ, tranh dành, ghanh ghen, hằn học với người hơn mình, không biết vu gian, thâm hiểm, hồ đồ, xảo ngôn. Chúng ta phải học chúng điều đó. Trẻ em chính là thiên thần, cũng là nhân tố hài hòa nhất của một gia đình, đó vừa là sức sống, vừa là cán cân hạnh phúc cho chúng ta. Trẻ em làm chúng ta thấy cuộc đời có ý nghĩa và giác ngộ hơn về Chân lý tối cao, chúng ta trở thành vị Thượng đế khi sinh ra chúng, hãy làm cho chúng hạnh phúc. Kẻ nào khinh ghét trẻ em, sợ gần trẻ em, không quý trọng trẻ em, kẻ đó không xứng được làm bố mẹ.
10-Dạy trẻ mọi điều đạo đức là cần thiết, nhưng có một điều phải dạy trẻ ngay từ lúc nhỏ là sự vô chấp, trung dung và không giáo điều. Nếu giáo điều, chúng ta sẽ làm khô cứng cả thế giới này. Tức không bám vào kinh sách, sách vở, rồi thì ra rả như ve, như cuốc kêu mùa hè, để con cháu chúng ta thành đám vỏ đỗ vỏ lạc ngay từ nhỏ.
Bố mẹ vô chấp, vô tư, hồn nhiên, thì con cái sẽ như thế. Bố mẹ vị tha, cao thượng, độ lượng, nhân từ, biết sống vì người khác, vì xã hội, thì con cái cũng như thế.
Nếu nó không được như thế, thì phải xem lại phương pháp.
11-Lòng hy sinh vì con, sẽ biến nó có lòng hy sinh vì mọi người, đừng biến lòng hy sinh của mình vì chúng thành sự ích kỷ của chúng. Đó là điều khó.
12-Các trẻ em, là những Linh hồn tái kiếp, sẽ có những năng khiếu cũ, kinh nghiệm cũ của chúng được biểu lộ. Nền giáo dục và phương pháp giáo dục làm sao làm phát lộ, nâng cao, phát huy, sử dụng và tạo môi trường tốt nhất cho những kinh nghiệm ấy, thành tài năng, năng lực, thiên tài.
13-Sáng tạo, sáng tạo không ngừng, tiến hóa, tiến hóa không ngừng, trên cái nền vĩ đại. Hãy dạy tuổi trẻ điều đó.
14-Lúc bé, là thiên thần, lớn lên, thành kẻ ăn mày quá khứ, có thể hư hỏng, phải tu luyện để không thành kẻ ăn mày quá khứ, để đến già, thành lại thiên thần.
15-Giáo dục đạo đức từ bé đến trung học; đến đại học cao, thì khỏi cần giáo dục đạo đức, mà dạy học và hành nghề. Đến lúc đại học mà còn giáo dục đạo đức, thì đó là thiếu xót của cả xã hội.
16-Về già mà vẫn giữ được tính hồn nhiên như trẻ thơ, mới gọi là đắc đạo.
Đã hồn nhiên thì không thể thâm hiểm, âm hiểm.
Có điều hay là cả một dòng họ của Ta, ai cũng có tính hồn nhiên kỳ lạ! Không ai có tính thâm hiểm, xảo xọc…Rất đơn giản, họ đều là những Linh căn tái kiếp.
17-Học không bằng hành. Hành không bằng quả tốt. Tốt không bằng cho người.
18- Ý chí của trẻ em là chỉ ghi nhớ điều nó hiểu biết. Nên nhớ hiểu biết khác học giáo khoa. Học giáo khoa vốn học chuyên, trong khi hiểu biết là cả trường đời là lớp học.

                                     PHÁP LUÂN VƯƠNG THIÊN ĐẠO

Hình Pháp Luân Vương Thiên Đạo là hình Tròn-có bánh tay lái bằng vàng. Phía trong có hình Tam giác Kim Tự Tháp, biểu trưng cho Tam Lý Pháp. Ở giữa Tam giác là hình Thiên Phù, biểu trưng cho Vũ trụ và Linh hồn thường tại.
Bánh xe Pháp Luân đặt trên một bông sen Vàng.
                                  Tựu trung Tam Lý Pháp Thiên Đạo là gì?
Tam Lý Pháp hợp nhất: Đạo Pháp-Chính Pháp-Huyền Pháp. Tựu chung là học, biết, tu, chứng, làm, thành cái gì?
Là:
Bản thể Ta. Thượng đế. Ta là Thượng đế tại thể, Chúa tự thân, Phật tại thế. Đời là Đạo. Hành Pháp là hành Đạo. Siêu thoát là An lạc. Ta là Một gốc. Ta là Nhân loại. Nhân loại An lạc, Thế giới cộng Lạc thành Thiên đường Thế gian. Đạo bất ly đời-đời bất ly sung sướng-sung sướng bất ly thoát luân hồi. Ta hóa hiện, hồn xác tại nhà ta Vũ trụ. Ta là Thượng đế và Ta đi- về nơi chính Ta đang đứng. Không có gì nằm ngoài Ta!
Tam Lý Pháp Thiên Đạo có đủ Lý của: Nho-Thích-Lão-Thiên Chúa-Hồi-Blamôn-Mật giáo….và các nhận thức tâm linh khác. Có đủ cả Nhân điện, các pháp khí công, huyền môn cơ bản. Về triết tự nhiên xã hội có cả: Duy vật-Duy tâm=Duy Nhất. Gồm có cả Giáo dục học-Tự nhiên học-Tâm lý học-Nhận thức học. Cả Duy Lý và Duy Tình=Cao Minh. Gồm Khoa học vật lý và hóa học, thiên văn cao cấp và Khoa học Tâm linh, lý số, huyền học=Thống nhất Tôn giáo và Khoa học. Gồm có đủ cả Vô hình và Hữu hình=Tự Hình=Cái Ta. Có gồm đủ Cộng sản và Phi Cộng sản=Thiên Đường thế gian.
Nhưng phải khẳng định: Tất cả các Lý thuyết trước, đều có thể dễ dàng nhận thức hơn, nếu hiểu nguyên lý của Thiên Đạo. Hay là Thiên Đạo đã làm sáng tỏ hơn về tất cả, trong một Hệ Thuyết Lý hoàn bị, thống nhất, không chia rẽ, hợp lý và khoa học. Các phần xưa thiếu, nay đã đủ đầy, rõ ràng, khả thi và đặc biệt cái đích cuối cùng là đưa con người tu luyện để thoát Luân hồi thường chuyển, thì đến Thiên Pháp của Thiên đạo là giúp con người dừng chuyển-hết Luân hồi.
Nếu bạn muốn chọn lựa một phương tiện tốt nhất để đi và đến, thì bạn hãy so sánh với các phương tiện khác và sự lựa chọn của bạn sẽ là hoàn toàn tự giác, nếu thấy quyền lợi, sự ích thiện và có sự chứng qua thực tế rõ ràng. Bạn sẽ tìm thấy lại cái mà mình đã có một cách nhanh nhất và cũng là đơn giản nhất.
Thời của Thánh Đức, thì phải có Thần thánh tại thế, mang xác thân nhập thế, cứu thế, xây đời. Không thể nào khác. Mỗi thời đại có Lý thuyết riêng của nó, có giai đoạn phát triển đặc trưng của nó và nó tạo ra con người của nó, đặc trưng cho xã hội đó. Con người là sản phẩm, là điều kiện và là nhân tố cũng như tác giả của xã hội đó, là Trung tâm của thời đại. Thời đại mới xây Thiên đường thế gian đã đến, nếu chúng ta không tuân theo Luật Trời Mới, e sau hối hận, nếu chúng ta lừng khừng tiếc cái cũ, mà không nương theo cái mới để đổi mới Nhân loại, trái đất và chính chúng ta, thì cũng đánh mất cơ hội tiến hóa cho mình. Các bạn là những người được Thượng đế lựa chọn cho đầu thai xuống thế kiếp này, hẳn là có Duyên Mới. Vậy, có Duyên, thì chớ quên Nhiệm vụ của mình.
Bánh xe Pháp luân đã chuyển sang đường mới, Pháp Luân Vương mới đã có, Pháp này độ cho tất thảy chúng sinh trong muôn năm tới về đến Nhà của Mình.
Ánh sáng rạng rỡ của một ngày tươi sáng đang chiếu rọi khắp quần sinh an lạc. Thế giới xưa chúng ta phải đổi mới, để giải phóng toàn triệt, để đem lại hạnh phúc công bình cho thế gian này, cứu mê, cứu khổ, phổ độ quần sinh đạt được một Thiên đường Vĩ đại nhất trong lịch sử Nhân loại.
Các bạn hiền! Rồi sẽ không còn khổ đau, bất công và tội ác trên trái đất này. Sự thanh bình kỳ diệu và niềm vui bất tận sẽ là của các bạn. Không thể khác. Các bạn hãy chủ động đón lấy bình minh trong sáng và thánh thiện, để ban mai mở rộng đến tận các tầng trời và soi sáng tâm hồn vĩ đại của các bạn và của Nhân loại chúng ta. Vòng tay đoàn kết đã mở ra, kết nối chúng ta thành Một vĩnh viễn, trong niềm vinh quang của Thượng đế Đại toàn năng!
Vinh quang thay Cao Minh Thượng đế, ơn lành về Cha chúng ta đã sinh ra chúng ta và cho chúng ta được sống trên thế gian này, để xây và hưởng một cuộc đời an lạc và thần tiên!
Cao Minh Thượng đế giáng lâm, vất vả lo cho các con, đã đến ngày Cha được an hiển.
Kính ơn Vua Cha cho bản tôn xuống trần làm nhiệm vụ này!
Và ánh sáng Cao Minh đã và sẽ chiếu rọi khắp muôn nơi. Mặt Trời Phương Đông bừng sáng, đang lên.
Thiên Đạo Thánh Đức huy hoàng là con đường bằng Bạch Ngọc để về Bạch Ngọc Thiên Đài.
                                                                                Ngày 1. 11. 2011