· 1-Ngày Rằm tháng Hai Canh Dần
Khơi thông lần nữa huyệt cân nước
nhà
Phá tan
hai điểm đất ta
Nơi xưa Biền yểm dưới chân Ba Vì
Lại thông suốt mạch vân vi
Kéo xuôi Tây lại Đông kỳ Lạng Sơn
Suốt từ Tây Sơn đến Đông Sơn
Tụ khí nối lại đường linh Tây Hồ
Vậy là xong đã cuộc vừa
Mấy ngàn năm, nay vào mùa Thánh ca
Giặc thù quì xuống lạy Ta
· 2- Không có gì của là ta cả
Thế giới này vô ngã, sắc không
Vòng tay Thượng Đế trắng trong
Gieo lành được phép Đại Đồng thế
thôi
Nhắc sau chớ có tranh đòi
Đạo Trời phổ độ một ngôi an lành
· 3-Dân của Trời, dành dân phổ đạo
Nhưng nhớ cho, chớ bạo hại dân
Thấy khi lửa đạn tranh dành
Chúng ta khởi thế sự hành tránh xa
· 4-Nơi đất cũ đình, đền, chùa, miếu
Nơi thờ
thần các loại từ lâu
Là nơi ta đắp lập nền
Lập Đền kính lại Cha hiền muôn năm
Đền ơn Cha, Mẹ sinh thành
Cho ta muôn kiếp luân hành thế
gian
Ấy là phép Đạo loan hoàn
Thống nhất qui lại con ngoan Một
nhà!
· 5-Chúng ta phải kính
ơn Nhân dân vĩ đại. Ơn Dân như ơn Trời, vì Nhân dân sinh chúng ta, nuôi chúng
ta và làm lên tất cả. Không có dân thì không có gì, do đó chớ phản hại dân!
· 6-Thực hiện nghiêm
nếp sinh hoạt:
1-Trước Cha thì sám hối lỗi phạm, hứa sửa chữa tự mình.
2-Trước Đạo, Đại Giáo chủ, Thầy, học trò, chúng sinh, thì nói lên hạn
chế, thiếu xót, cách khắc phục, thời gian khắc phục. Ai ai cũng phải như thế.
· 7-Ta nhắc lại lần
nữa: Muốn Thiên Đạo tồn tại muôn năm, thì chớ phân rẽ Giáo hội. Muốn không phân
rẽ Giáo hội, thì cứ tuân theo hai Luật gốc Đạo-Đức mà làm. Chớ có bàn việc thay
đổi Luật của Ta, mà chỉ bàn cách và tìm cách làm như thế nào, để thực hành
Chính Luật đó. Đó mới là hành Đạo, còn ngược lại là phá Đạo.
· 8-Càng bị bầm dập,
thất bại, càng biết vươn lên.
· 9-Không đau khổ vì chúng sinh, chúng ta không
thành thần thánh.
· 10-Hạnh phúc do ta tự
kiếm ngay trong bản thân mình, chứ kiếm đâu xa?
· 11-Liên hoan văn
nghệ, phải có mọi người tham gia. Muốn vậy, ta phải là một đạo diễn tốt.
· 12-Chấp một bước với
cái ác, cái ác sẽ tiến một bước, đến ranh giới ác hơn. Vậy ta không chấp, cái
ác sẽ tự lui.
· 13-Trong ngọn lửa đỏ
rực, bao giờ cũng có không khí trong lành.
· 14-Bình yên là an
lạc.
· 15-Tịnh không là về
Trung Phương.
· 16-Chính Pháp của
chúng ta là gốc, các pháp tu lánh đời chỉ là ngọn.
· 17-Pháp là tất cả,
chứ thầy không phải là tất cả.
· 18-Noi theo Pháp mà
học, noi theo các thầy mà tu luyện.
· 19-Chính Pháp có thể
thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp, nhưng bất diệt cùng nhân loại bất diệt. Đạo
Pháp bất diệt, Huyền Pháp bất diệt. Thiên Đạo bất diệt.
· 20-Tu chưa chứng ngộ
tâm linh, là tu chưa tới.
· 21-Giải thoát tại thế
là viên mãn Đại Đồng.
· 22-Quỉ ma cũng là
người, chớ bỏ quỉ ma.
· 23-Bỏ ngã chấp, tức
là làm cho mình chấp ngã ( chấp với mình-không chấp với người).
· 24-Ngồi nhìn đời chợ xem sao
Thấy xem đổi cuộc ba đào nơi
nơi.
Lòng thanh xây huệ hoa đời
Tâm thanh tĩnh lặng mà vui nỗi
lòng.
· 25-Tam lý Pháp thống
nhất trong muôn vật, mọi sự, trong con
người chúng ta.
· 26-Nay thầy hóa hiện muôn hình
Giáo chủ xuống dạy Pháp huyền
thế nay
Độ cho nhân thế an ngay
Huyền cao phép đẳng đến ngày
Thiên Lương.
· 27-Đạo Cao Đài Cha truyền Đạo Pháp
Không xác phàm giác độ chúng
sinh
Ngặt vì thân hóa anh minh
Nên chưa truyền bí pháp thành
mọi nơi
Nay Ta được ghế của Trời
Hóa hành Huyền pháp dạy bơi về
nhà…
· 28- Trước chuyển thế:
Mỗi nơi vài hạt gieo chơi
Mùa sau còn đợi đến thời Hoa
Long
Rồng còn ẩn nhẫn thong dong
Chờ ngày xuất lộ vào hồng mùa
thu
· 29-Thần dân Thiên Đạo
thực hiện nghiêm:
-9 Điều Không.
-9 Điều Cấm đặc biệt về tâm linh.
-4 điều Thánh Đức: Đại Đồng-Đại Thiện-Đại Mỹ-Đại Linh.
-4 Điều Hành Thiện: Bác ái-Công bình-Phổ độ-Tâm công.
-4 Điều Hằng Sống: Làm đủ ăn. Ăn đủ sống. Sống công bình. Bình thiên hạ.
-Tứ Đại Định Đức: Là Cẩm nang giác ngộ.
-Tứ Đức Tu trì: -Nam: Lễ, Nhân,
Trí, Tín.
-Nữ: Trinh, Thiện, Hiền, Tâm.
-Tứ Đức
hành Đạo, yên đời
Thân
tâm sáng tỏ, muôn người lạc an.
Xem
trong số Đạo rõ ràng
Nay Ta
dạy chúng sinh vàng bài ca:
Lễ là
nghĩa lễ cao sang
Kính
Trời, yêu Mẫu, thân tàng chính ta
Kính
thời bố mẹ trần gia
Kính
thầy, trọng bạn, trong nhà an vui
Không
tham không đoạt của ôi
Coi
người như thể mình thời mới an.
Nhân thành
chính trực rõ ràng
Yêu
đời, nhân thế, mọi đàng chúng sinh
Không
sát hại thể tâm lành
Tha
nhân, độ thế, mà hành chữ Nhân
Bỏ đi
sân hận, lợi danh
Vì
Thiện, thương kẻ tranh dành với ta
Thương
người lẫn cả cỏ hoa
Chúng
sinh an lạc vậy là mới vui
Trí bền
như Đạo Trời ngôi
Tìm
trong trí tuệ luật Trời tại sao
Thân
hành Đạo Pháp mới cao
Thông
thiên thông địa, thông vào thần minh
Với đời
thân trí xác hành
Nghĩ
suy đúng luật xây thành bài ca.
Dùng
trí xây đời Một nhà
Đúng là
nghĩa ấy thì ra Thiên Đường.
Tín thành
giữ chặt tình thương
Chớ vì
cũ mới mà phường hại nhau
Lộc
tài, gạo muối chia rau
Công
bình ấy phép làm đầu đời an
Giữ
mình chồng vợ thật ngoan
Chữ
trung, chữ hiếu mình càng vui hơn
Nghĩ về
một nẻo Đạo ơn
Vua
Cha, Mẫu Mẹ đang cười đợi ta.
Trinh là
chính thẳng thiết tha
Thân
tâm sạch sáng, ruột rà xanh trong
Chính
bền nề nếp thong dong
Cây
lành hóa quả thân thành tốt tươi
Thiện đức
lương thiện ở đời
Tôn vì
cái đẹp lòng người, chính ta
Văn
chương, lễ nghĩa trong nhà
Nuôi
con, chỉ dạy gần xa nên người
Đạo nhà
ngôi thực chính rồi
Không
dùng hình phạt con thời mới an
Lời
nhân độ cả giang san
Với
chồng êm thấm mới càng giỏi hay
Hiền thục
nhi nữ đạo hay
Không
dùng lời lẽ to dày chống nhau
Thiết
tha cùng dạy tu ngay
Không
buồn, bi lụy đợi ngày về Thiên
Như là
cô giáo độ hiền
Dạy
con, dạy cả chính nền đạo gia
Ở ngoài
quân lệnh như nhà
Tôn
chồng, tôn cả ba tòa Lương linh
Đổi
thay phải được phép chồng
Đi đâu
cũng phải thong dong mới là
Tâm là tâm
thiệt, thật thà
Thương
người, đồng một bài ca như mình
Là nữ
càng cần chữ Tâm
Nếu
không mất cả lương nhân rõ ràng
Tu
luyện soi cả tâm can
Lòng
trong, khí sảng, lợi chồng, lợi con
· 30- Khi chỉnh trị kẻ tà người xấu
Là phép Trời độ xấu thành xanh
Chớ rằng diệt tuyệt màu nhanh
Để cho mọi kẻ kết dành mùa vui
· 31- Phép soi chiếu đúng người đúng việc
Bóng tượng hình đó phải thật
trong
Chớ biến tượng bóng tượng hình
Nghi gian phải đặt chữ tình lên
trên
Đọc cho kiểm nghiệm nhãn tiền
Kết lại cho đúng, điều nghiên
mới là…
· 32-An lạc là gì? Là
bình an, an vui, tự do, bằng lòng trong sự công bình cùng lợi lạc chân chính
của cá nhân trong an lạc xã hội. Muốn có an lạc, tất yếu toàn dân phải có công
bình. An lạc thiểu số người, không phải là an lạc trong Chính Pháp của chúng
ta. An lạc trong tu luyện là đạt trạng thái siêu ngã hòa nhập vũ trụ. An lạc
trong đời sống, là sự bình ổn và bằng lòng với chỉ số hạnh phúc chung.
· 33-Tu luyện đến độ
thông Thiên Địa, hợp nhất tiểu ngã với đại ngã, loại bỏ tính cá thể, chỉ có cái
chung, không có cái riêng, chứ không phải là đánh mất bản ngã, là hợp luật, đắc
Pháp. Nếu về mặt xã hội hướng thành Đại Đồng, vì tha nhân chúng sinh, tất đắc
đạo.
· 34-Ta là của chung.
Ta dựa vào Thiên Địa.
· 35-Con người là sản
phẩm tuyệt diệu của Tạo hóa, là kỳ công tuyệt tác của Thượng đế, là Ngọc của
đất, là Ngọc của Trời, tại sao phải ghét nhau, tranh dành nhau, hỡi những người
anh em thương quí?
· 36-Thiên Đạo không có
kẻ thù, chỉ có kẻ thù nghịch với Thiên Đạo.
· 37-Đạo là không khí
chúng ta thở, là cơm chúng ta ăn, là cả hành vi tính dục, là mầm cây chồi lá,
là hoa quả, chúng sinh, là trí tuệ Cao Minh, là Thượng Linh vĩ đại…
· 38-Bản chất tạo hành
động, hành động tạo nghiệp quả, nghiệp quả tạo số phận kiếp, hồn; cứ như thế,
đến bao giờ bản chất Thượng thanh thì dứt nghiệp quả.
· 39-Nhìn mục đích lý
tưởng thấy chính, tà; nhìn hành động biết thiện, ác.
· 40-Giáo lý Chính kinh
chỉ là mớ giấy lộn, nếu không hành động theo đó. Tu là biết bỏ sách, mới là tu
ngoan.
· 41-TPTT: Thần phật
tiên thánh.
· 42-Số phận cuối cùng
của các linh căn là về hẳn Thiên Đường theo đúng Đạo Pháp. Pháp Ta độ hết linh
căn về bằng Chính Pháp và Huyền Pháp.
· 43-9 điều của bậc Chuyển Luân Minh Vương phải
có trong thời đại sắp tới là:
1-Tạo ra con đường hợp nhất nhân loại khả
thi. Muốn vậy phải có: Hệ thuyết triết học Khoa học Xã hội và Nhân văn cao cấp
để hợp nhất xã hội nhân loại. Có tài để thực hiện điều đó. Đây gọi là Chính
Pháp.
2-Chỉnh đốn các tôn giáo về đúng Đạo Pháp
chân chính, thực hiện hợp nhất qui tôn đúng Luật Trời mới. Muốn thế phải có Đạo
Pháp đúng đắn, có thể qui tôn hợp nhất được các tôn giáo bằng Chính Kinh.
3-Tạo ra Huyền Pháp-hay chính là bí Pháp để
tu luyện cho chúng nhân đắc đạo. Muốn nhanh độ hết linh căn, thì tu luyện phải
đắc đạo cao siêu, độ cả nhân loại về Thiên Đường, hợp nhất Đời và Đạo. Huyền
môn cao diệu, có chứng ngộ của bề Trên. Giống dân mới thực hành thành thần thông
quảng đại siêu đẳng.
4-Định lực tâm linh huyền thuật và quyền lệnh
tâm linh tối cao, được kiểm chứng trong không gian vô hình và Hạ thế, có ấn tín
sắc lệnh của Thượng Đế, được Chư thiên ủng hộ, cho mọi người chứng ngộ. Quyền
lực tâm linh đủ dùng xây dựng và hướng Đạo, dạy nhân loại hàng vạn năm Thánh
Đức.
5-Đúng ngôi chính vị chân linh, được Thượng
Đế cho ngôi Thiên Tử, thay Cha giáo hóa nhân loại và có quyền lệnh vô đối ở
Trung, Hạ giới.
6-Đạo đức, bản chất cá nhân phù hợp với nội
dung Đạo pháp, Chính pháp và Huyền Pháp, tu chứng đắc đủ ngũ, hoặc lục thông.
Tư cách đủ cho một bậc Minh Vương. Số phận đủ cho một bậc Thiên Tử. Từ linh hồn
đến xác thể phải có dấu hiệu của Thiên Tử
Ngôi Hai giáng thế.
7-Huyền phép siêu đẳng. Trí tuệ cao minh.
8-Phải là người sinh ra và lớn lên tại Thánh
địa mới của nhân loại (nước Việt Nam), do Thượng đế chọn lựa. Không
phải là người của các tôn giáo cũ hiện tồn.
9-Có khả năng sinh sản.
Ai có đủ được 9 điều này, thì mới chính thực nhiệm vụ tôn quí. Không đủ chớ mong.
Mong không được, tranh không được, và nếu có, thì tránh cũng không được.
· 44-Bất cứ sinh mạng
con người nào ở dưới Hạ thế này đều được coi trọng như nhau, có quyền sống
ngang nhau. Không vì bất cứ lý do gì, mà hy sinh sinh mạng người khác, vì một
lý do sống nào đó.
· 45-Kẻ có công quả với
Pháp môn, giúp Ta lập Pháp, sẽ được ngôi vị tôn quí về sau một cách công bình.
· 46-Nhân dân vốn dĩ
không xấu, vì đời sống và tính cách của họ phản ánh bản chất qui luật của xã
hội đó, và của tự nhiên. Người tổ chức xã hội, một là làm cho họ tốt, hai là
góp phần làm cho họ xấu mà thôi.
· 47-Chủ động nhập Thế,
ấy là phép Đạo.
· 48-Thượng bất thiện,
hạ tắc ác.
· 49-Người ta không thể
tổ chức xây dựng xã hội chỉ bằng nụ cười. Trên Thiên đình và Hạ giới đều như
thế.
· 50-Thật mơ hồ, nếu có
một Giáo chủ nào đó vào thời đại mới sắp tới, muốn nhân loại lên núi hết, hoặc
vào một nơi tu, không còn sản xuất, ăn mặc, sinh đẻ. Nếu Pháp đó có, tất chỉ
được thời gian ngắn. Vì sao? Một là nhân loại loạn tiếp, hai là chết đói hết.
Nhưng dù sao, các Pháp chủ cũ, Ta đều tôn trọng làm thầy, vì lòng hy sinh vĩ
đại, đạo đức cao diệu và trí tuệ siêu phàm của họ.
· 51-Ta vẫn phải nhắc
lại: 7 sao là 7 trung tâm thần lực và tâm linh. 7 sao Bắc Đẩu là 7 trung tâm
thần lực vũ trụ-là các luân xa của Thượng Đế-là Đại Tổng quản các Thiên thần.
Hằng năm, hằng ngày, hằng giờ, 7 sao này thay đổi xoay không ngừng, tạo ra sự
thay đổi toàn vũ trụ, con người, muôn vật.
· 52-Vũ trụ có năng
lượng sáng tối, thiên thần có chính, tà, thiện, ác. Loài người cũng vậy. Nhưng
vì linh hồn là các linh căn gốc của Cha Mẹ toàn thiện, nên chúng phải phấn đấu
toàn thiện, toàn mỹ, toàn linh, ấy là hợp luật tiến hóa. Bất cứ linh hồn nào
chống lại luật ấy thì bị hủy diệt.
· 53-Rất nhiều cách nói
khác nhau, nhiều lý lẽ khác nhau, nhiều tư tưởng biểu đạt khác nhau-Nhưng phải
có một cái chung nhất. Nên khi đọc Chính kinh, tốt nhất là tự mình đọc, rồi tu
luyện để minh chứng được lý thuyết, chứng ngộ được mọi điều, ấy là cách học đơn
giản, nhưng khó khăn. Chống được kinh viện, bàn sàm loạn Pháp, lại tinh tấn
nhanh. Người thầy chỉ nên định hướng là đủ. So với các Giáo chủ trước, Ta đã để
lại quá nhiều.
· 54-Học là soi vào bản
thể, tâm hồn mình, tìm được mọi qui luật trong đó, chứ không nhìn ra bên ngoài.
· 55-Chỉ có tu hoặc
không tu. Chứ không có nói hay không nói.
· 56-Tu luyện đến trình
độ mà thấy im lặng là cách biểu đạt tốt nhất, ấy là hiểu được lời Ta nói.
· 57-Ý nghĩ con người
có khi là thật, hoặc là giả; hành vi của con người có khi là thật hoặc là giả.
Vì tư tưởng, hành vi rất phức tạp. Chỉ có mục đích là thật. Kẻ đắc phép tha tâm
thông phải hiểu được điều trên.
· 58-Thượng Đế thương
chúng ta, hay chúng ta thương Thượng Đế? Thượng Đế thương đám con lau chau
tranh dành nơi Hạ giới, còn chúng ta thương Cha-đấng Tạo hóa vĩ đại đã phải
thương chúng ta. Có cách nào làm được Cha chúng ta vui?
· 59-Tất cả mọi dòng
máu đều đỏ, tất cả mọi họ tộc đều đã được sinh ra từ một mầm đầu tiên-nguồn gốc
Thiên thần.
· 60-Nhân loại có chung
một mái nhà vĩ đại-ấy là Trái đất, phải biết xây dựng và bảo vệ nó.
· 61-Giải quyết không
gian sống công bình, lập trật tự công minh, ban rải pháp luật công chính, để có
sự công bằng cho mọi người, ấy là phép chia đều của Đại Đồng Nhân loại.
· 62-Sau tất có vô số
kẻ xưng ngôi vị, tranh dành thiên hạ. Tranh gì thì tranh, làm gì thì làm, nếu
không tuân theo định luật Vũ trụ và luật mới cho thế giới, tất bị diệt. Chỉ có
đoàn kết, hợp nhất, chứ không thể tan rã, quay lại thời mạt thế. Ta sẽ dạy những bài học đích đáng cho những
kẻ nào tìm cách chống Thiên Đạo vì lợi ích riêng, hoặc cố tình đưa nhân loại về
thời đau khổ trước.
· 63-Lũ mục nhân, vô
minh lâu, ác dai, không chịu hồi đầu, thì phải trấn áp cho hợp lý.
· 64-Nhiều kẻ được Cha
và chư thiên cho xuống thế kiếp này để giúp Ta lập Pháp, lập nghiệp, nhưng
xuống rồi quên mất mình là ai, tham nhiễm thói đời, quên nhiệm vụ, quên thầy;
nếu có gặp lại cũng kiêu hợm, khinh khi, hỗn láo, hoặc nếu có giúp Ta thì tính
công, thậm chí coi thường. Khi Ta chưa nổi phép, thì không chấp, nay nổi phép
rồi, nếu ai rẻ rúng, sẽ mất Ta. Ta quyết trả ơn xong tại thế. Sau chớ trách Ta
không xếp ghế ở trên.
· 65-Đạo vốn ở trung phương-trung-không, có cả chính,
tà cân phân, nên không còn là tà chính. Làm cho mọi vật tiến hóa, ấy là chính;
làm cho mọi vật suy lụi, ấy là tà. Thiện, ác song hành, vật tắc sinh, tắc diệt.
Ta ngồi trung cung. Nên chớ khen Ta thiện, chớ chê Ta ác. Nghiêng người bên này
là thiện, nghiêng người bên kia là ác. Trong thiện có ác, trong ác có thiện,
trong thanh có trọc, trong trọc có thanh, ấy là Ta. Lậu tận thông là đắc chính
trung phương. Chỉ khi nào đắc lậu tận thông-không còn tham luyến mọi sự, mới
đắc đạo. Toàn thiện, chưa phải là đắc chính, toàn ác chưa phải là đắc tà. Đắc
Đạo là về ngôi trung cực, cao nhất trong tiến hóa, có cả hai vế ấy, mới là hợp
nhất với Cha! Nhưng do chúng ta xây đời tại thế, nên đắc được lậu tận thông rất
khó, phải phấn đấu xây đời, tức là còn tham luyến trần gian, mong cải đời độ
thế, như thế chưa thể thoát trần được. Đạo Phật cho rằng thoát mọi khổ ải,
tham, sân, si là đắc lậu tận thông. Còn chúng ta qui định: Đắc giác ngộ siêu
thoát bậc cao, rồi đĩnh ngộ nhập thế xây đời, mà không còn nhiễm lậu nữa, thì
đắc vị lậu tận thông-đạt bậc Trung Phương. Nên Ta qui định, đắc đạo là đạt bậc
Trung Phương. Một bậc Trung Phương phải đắc được giác ngộ siêu thoát và đĩnh
ngộ nhập thế ở mức cao nhất, gọi là tu luyện đắc quả vị Trung Phương.
Trong Luật Đạo đã qui
định 4 bực tiến hóa: Đạt Nhân, Hạnh Nhân, Quí Nhân, Chân Nhân. Bậc Trung Phương là bậc Chân Nhân.
-Đạt Nhân: Giác ngộ Chân Lý, công quả tốt, không còn
làm ác, làm tốt 9
điều Không phạm. Vui
hòa Thiên-Địa-Nhân. Nhưng còn thiên lệch, phân chia thiện ác thiên lệch. Hành
sự còn nóng nảy, tự mình suy nghĩ chưa thông học hết.
-Hạnh Nhân: Như Đạt Nhân, thêm lòng từ bi, nhân ái cao, có tiếng
thiện lương và công quả xây đời, là tấm gương thương dân, độ thế. Tu luyện
Thiên Pháp đắc cấp 3 trở lên. Có đạo hạnh, nhưng chưa chứng sở đắc tâm linh
cao.
-Quí Nhân: Giác ngộ siêu thoát bậc cao, ứng với trình độ thông linh
và tu luyện Thiên Pháp cao cấp. Công quả lớn. Đắc an nhiên tự tại, không còn
tham lậu, nhưng còn thiên lệch. Hành sự chưa chuẩn hết, thiện ác chưa công
bình.
-Chân Nhân: Mọi sự chính trực công bình, hành sự công
minh, thương yêu nhân quần vô điều kiện, thương yêu chúng sinh, từ bi thiện
lương với cả kẻ ác, kẻ thù. Tu luyện Thiên Pháp thành thần thông siêu đẳng, trí
tuệ uyên bác uyên thâm, trên thông Thiên, dưới thông Địa, giữa thông Nhân quần.
Công quả xây đời độ thế vượt bực. An nhiên tự tại cao. Thiện ác cân phân, chuẩn
mực về Không-thành bậc Trung Phương.
· 67-Có hai cách nói:
Một sinh hai, hai sinh bốn, bốn sinh tám. Hoặc Một sinh hai, hai sinh ba, ba
sinh chín. Tất cả là 9. Đều đúng.
· 68-Vua chăn dân, cũng
phải đi cày; vừa làm lấy mà ăn, vừa luyện tập sức khỏe, vừa được sự trong sạch
thân tâm, lại biết thương dân, không bị đổ đốn mất nết!
· 69- Có
người đã hỏi Ta rằng:
Đây là Phật đạo hay là Thánh
đạo.
Ta mới nói: Phật, Thánh,
Thần, Nho đã mãn rồi
Các tôn giáo ấy đã thay ngôi
Đạo Trời muôn thủa, muôn năm
thịnh
Thiên Đạo độ cho khắp mọi đời!
· 70-
Nay Ta lập âm dương cửu khí
Đạo là Đời, định luật muôn
năm
Xây đời, cải hóa nhân dân
Độ cho hết cả nhân quần về
Cha
Trong vài chục vạn niên qua
Là xong vớt cả hồi nhà linh căn.
· 71-Vua không tu
luyện, không phải là vua hiền; tôi không tu luyện, không phải là tôi giỏi.
· 72-Thiên tử công
minh, tất Thiên hạ công bình. Có công bình, mới thành công Thánh Đức.
· 73-Đại định đức xây
Đời và An tịnh nghiệp xây Đạo, là con đường tu nghiệp của Vương Đạo.
· 74-Chở để phí phạm
nhân tài, dù cái tài ấy làm sạch cho nước, hay biết làm vẩn đục nước.
· 75-Ai dám nhảy xuống
dòng nước xoáy, người ấy đích thị là kẻ cứu đời.
· 76-Đừng bao giờ cố
gắng thể hiện mình là thánh nhân, đạo sư, người tu đắc đạo, đạo cao đức trọng,
mũ cao áo dài. Ta cho đó là tu hình tướng hết, kể cả ăn chay cũng là tu hình
tướng. Ở nhà tranh, cởi trần, thì vẫn đắc đạo. Cái khó nhất của chúng ta là xây
đời an lạc, đầy lạc an, thiên đường tại thế đẹp tươi. Nhưng lại cũng tu thành
đắc chính. Cho nên Pháp chúng ta là pháp khó nhất, nhưng sẽ được lâu dài, vinh
quang nhất!
· 77-Ta lại nói: Ta đã
xây được cái nền, thì các người phải biết xây cái nhà, có thể mỗi giai đoạn mẫu
vật liệu khác nhau, nhưng nhất thiết khung hình nên thống nhất; người xây khác
nhau, có thể màu sắc khác nhau, nhưng cách xếp đặt đồ vật trong đó nên thống
nhất. Khó khăn thuận lợi khác nhau, nhưng hướng nên thống nhất. Trên nóc có khi
ngói lợp khác nhau, nhưng nóc điện và bàn thờ Vua Cha nên thống nhất! Có như
vậy, mọi sự tất thành, tất thống nhất, tất thành Nhân loại.
· 78-Hai bộ Luật Thiên
Đạo gọi là Luật Đạo, Luật Thánh Đức gọi là Luật Đức. Luật Đạo-Đức là hai
bộ luật gốc, là Hiến pháp Thiên Đạo Thánh Đức. Hiến pháp khó có thể thay đổi. 7
luật nhỏ tùy thời.
Cơ Trời đã dạy từ lâu
Mọi điều phải trái cơ mầu
không sai
Tam Tòa thánh thể an bài
Ba ngàn thế giới tay ai lập
thành?
Vua Cha giáo độ rành rành
Một tay Cha lập sử sanh
muôn đời
Trung Thiên ngôi ấy giữa Trời
Hai Tám vạn thế đạo đời mùa
sau…
Phương Tâm ngọc thể giáng đầu
Nhất nhất trụ thế vĩnh câu
an lành…
· 80- Mọi sự tranh luận, hay kinh viện giáo điều,
đều là điềm phá Pháp.
· 81- Trấn tà cải ác trừ ma
Ấy là phép thiện thánh ca ở
đời
Bởi vì tâm thiện như Trời
Hóa lành đời thiện muôn nơi
mới là…
· 82-Dạy con lòng yêu
thương, sống vì mọi người, ấy là bảo phúc tại gia đã rõ.
· 83-Bố mẹ ích kỷ thì
con cái ích kỷ và ngược lại. Bố mẹ thiện lương thì con cái thiện lương. Ấy cũng
là nhân quả.
· 84-Không tra tấn mọi
tội nhân tại Hạ giới, để thể hiện sự ưu việt của Chính Pháp. Đối với tội vong,
đã qui định rồi, tội cực nặng thì diệt vĩnh viễn, tội nhẹ thì cho lên trường
Giáo linh, tội vừa cho vào Thiên ngục đỏ, rồi giáo hóa, cho siêu…Tội vong ngoan
cố, mới cho vào địa, hỏa ngục.
· 85-Thời đại nào, tiến
hóa nào, thì ứng với tôn giáo đó, triết luận đó. Chớ đem cái cũ, mà bao biện
cho cái mới.
· 86-Có một nền tín
ngưỡng toàn cầu-cùng thờ Vua Cha Thượng Đế, chung nghi lễ. Lúc đó không còn tôn
giáo. Cho nên, Ta mới nói, Thiên Đạo không phải là tôn giáo.
· 87-4 ngày Tứ khí,
nguyên khí tụ về Trung cung, về Không, rồi lại chuyển hóa vi diệu. 4 ngày đó,
phải tế Trời.
· 88-Sau này, các thế
hệ sau phải chú ý: Nghiên cứu phát triển Giáo dục và các chiến lược kinh tế
Thánh Đức vào các thời kỳ, làm nền tảng cho xã hội phát triển. Giáo dục tạo ra
con người- linh hồn của xã hội. Kinh tế tạo ra nhân thể-thể xác xã hội. Cả hai
mặt quyết định mọi việc. Con người là động lực tiến hóa của nhân loại. Kinh tế
là động lực tiến bộ xã hội. Cả hai, ở trình độ nào, thì xã hội tiến hóa, thiên
đường tiến hóa thế ấy. Con người hỏng, chính trị, kinh tế sẽ hỏng. Kinh tế
hỏng, con người, chính trị, văn hóa hỏng. Nên giáo dục, tạo ra con người, tạo
ra văn hóa, kinh tế. Nền giáo dục Thánh Đức, lấy tu luyện và đào tạo nghề
nghiệp cho xã hội Thánh Đức làm căn bản. Không tu luyện, thì có nghề nghiệp
cũng không giá trị. Tu luyện, nhưng không có nghề nghiệp, không có công quả xây
đời.
· 89-Thánh Đức là xã
hội Thần Thánh.
· 90-Trong đống tro tàn
của hài cốt, phân gio, những hạt mầm Thánh Đức mọc lên, trong Nguyên Khí mới
của một thời đại mới rực rỡ vĩ đại.
· 91-Đừng bao giờ nói
rằng không cần tổ chức xã hội. Bất cứ một giai đoạn phát triển nào của xã hội
loài người cũng luôn cần tổ chức, chỉ có khác là cách thức tổ chức như thế nào
mà thôi. Trên Thiên Đình có tổ chức, các Hội đồng Thiên hà có tổ chức, Hệ Mặt
trời có tổ chức, thì loài người phải có tổ chức.
· 92-Đừng bao giờ nói
không cần vật dục, tình dục-đó là nguyên lý của sự tồn tại muôn đời. Hợp nhất
âm dương tính, là sự tồn tại, đảm bảo cho sự sinh sôi và tồn tại của Vũ trụ,
loài người. Loài người là vật chất, thì phải tồn tại là vật chất. Vấn đề ở chỗ
là chúng ta sử dụng những yêu cầu, ham muốn và sự duy trì đó như thế nào cho
hợp lý nhất, hợp với qui luật Vũ trụ và điều kiện cụ thể nhất.
· 95-Cách mạng Thánh
Đức, là Cách mạng triệt để, vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại từ trước đến
nay. Mỗi thần dân Thiên Đạo là một chiến sỹ kiên trung, bất khuất, can trường
và quyết tâm nhất! Hãy đập tan tội ác mà không cần bạo lực; phá bỏ cái cũ, cái
xấu, cái bảo thủ, vô minh, lạc hậu! Phá bỏ đói nghèo, bất công và đau khổ,
chiến tranh! Để xây dựng Thiên đường Thế giới! Nhân dân cần lao hãy đoàn kết
lại! Nhân loại tiến bộ hãy tiến lên!
· 96-Khi cần hy sinh,
chúng ta sẵn sàng hy sinh cho Thánh Đức muôn năm, vì chúng ta sẽ bất tử và đầu
thai trở lại Thiên đường mới. Thầy sẽ xin Cha cho các chiến sỹ anh dũng đầu
thai trở lại nhanh chóng! Khi cần hy sinh của cải, chúng ta hãy dành cho nhân
dân. Khi cần hy sinh sức lực, chúng ta hết lòng cho xây dựng Thánh Đức. Khi cần
hy sinh tính mệnh, chúng ta hãy dành tình yêu cho Thượng đế. Người Thiên Đạo
không bao giờ sợ chết, vì sáng rõ Chân Lý vĩ đại và con đường tiến hóa.
Sau khi đọc nhẩm, tranh thủ thiền-luyện
khí-sám hối các việc, rồi định công việc trong ngày, định tâm.
Làm trong khoảng 20 phút, vào bất cứ lúc nào
trong buổi sáng, nhưng tốt nhất vào lúc sáng sớm, sau khi thức dậy.
· 100-Các pháp cũ xác
định có Lục thông. Người Thánh Đức phải đắc Thất thông mới gọi là Chân Nhân-đắc
đạo.
· 101-Các tôn giáo cũ,
Ta cho là Tôn giáo, chứ chưa đạt tầm Đại Đạo. Tôn giáo là phương tiện để con
người nhận thức, giác ngộ, tu luyện trở về cái Đạo-hay là cái bản nguyên cái
gốc có sẵn của mình. Đời cũng là một phần của Đạo-tức cơ tồn tại, tiến hóa của
Vũ Trụ. Đối với loài người, thì không có Đời làm gì có Đạo. Tôn giáo do Đời
sinh ra, để độ Đời, nhưng có tính tách Đời với Đạo. Tại sao như vậy, bởi vì do
tính chất trình độ tiến hóa của loài người thời kỳ trước Ta như thế mới hợp. Vì
mới là Tôn Giáo-cho nên còn phân hóa loài người giữa tôn giáo này với tôn giáo
nọ, tranh dành chúng sinh, lợi danh, đấu tranh và chiến tranh tôn giáo. Đặc
biệt, chưa tôn giáo nào bao bọc được Đời. Tại sao? Vì họ chưa bao giờ có triết
thuyết xây dựng xã hội, dù là xã hội họ đang sống, nói chi đến sứ mệnh cải tạo
nhân loại muôn đời. Còn chúng ta là Đạo-Thiên Đạo-Hợp qui luật và tuân theo Đạo
Trời muôn thủa mà thi hành Chính Pháp xây đời tại thế. Đến bây giờ, Loài người
mới có Vương Đạo, mới có Đạo bao trùm Đời, bao bọc Đời. Thời mới này, con người
phải lập tức nhận thức được mình là Một Thượng đế nhỏ-và ngay ngôi nhà của mình
là Thiên Đường Nhỏ. Thiên thần không phải ở đâu xa, chính là người đang cày
ngoài ruộng, bà mẹ cho con bú, đứa bé đang học bài, người già đang hong nắng!
Vì họ đã giác ngộ Chân Lý và Đạt trình độ của một vị Tiên Phật ngay tại thế
gian, khi còn mang xác phàm; đến khi họ mãn trần, lập tức được về cảnh giới cao
cấp, như mọi vị Thượng linh khác. Cho nên, Thiên Đạo đâu còn là Tôn giáo, mà là
Đạo. Hòa với Vũ trụ hoàn toàn, xây đời
không hề có phân thứ trong nhận thức và tu luyện, thì là Đạo Trời vậy!
Cao Đài Đạo, Cha dạy loài người về một nền
tảng hợp nhất, để chúng ta ngày nay qui hợp Nhân loại về Một. Ta trong cái Đạo
ấy sinh ra, ở chính Trung Cung phát tiết ra vậy, để thi hành Chính Đạo của Cha
Ta và Cha các vị. Huỳnh Đạo-Đạo Vàng, hay Trung Cung-Ngũ Khí Triều Ngươn là Cha
Ta, Ta là Trung Phương Thiên Tôn. Thiên Đạo là Đạo Trời-Đại Đạo cuối cùng của
Loài người, để đưa loài người tiến hóa thành trình độ siêu đẳng, siêu linh
trong Vũ trụ trong hàng vạn vạn năm sắp tới. Nếu có Mạt, thì chỉ Mạt Huyền Pháp
mà thôi, vì sau này loài người cực kỳ cao thượng, thông linh, thân tâm đạt vi
chất huyền diệu cao cấp đến bất tử tại thế, thọ hàng ngàn vạn tuổi, thì Huyền
Pháp tự nhiên không cần nữa. Đạo Pháp lúc đó nhiều phần không cần nữa. Chính
Pháp thì cần muôn đời. Tại sao? Vì xã hội loài người còn muôn năm. Con người
cần sinh đẻ, lao động để tồn tại, cần phải tổ chức. Thiên Hà, Thiên Đình còn có
tổ chức, có lãnh đạo, có Vương Đạo, thì Nhân loại phải có tổ chức, có Vương
Đạo. Vĩnh viễn loài người cần phải tổ chức đến trình độ Đại Đồng mới có Thiên
đường thế gian. Muốn có Thiên đường Thế gian, thì phải có Vương Đạo. Cho nên
Cha có dạy Đạo Cao Đài là phải có Vương Đạo trị thế. Minh Vương quản trị mới yên ngôi Trời là như thế. Vũ trụ vốn là
Một-là tổ chức thống nhất, phân ra các cấp quản lý rồi. Không có bất cứ cái gì
nằm ngoài tổ chức.
· 102. Đạo và Đời-nói cho dễ hiểu:
“ Đạo không đổi, hoàn mỹ hoàn thiện muôn đời
rồi
Mà Đời như là con thuyền mà thôi. Chỉ có một
Đời trần thôi.
Muốn đi thuyền tiếp, thì phải đầu thai lẫn
nữa.
Trong đời có nhiều cái xuồng-là tôn giáo
Đôi khi xuồng thả ra, chạy trước thuyền hoặc
sau thuyền
Chở ít, hoặc nhiều người thêm, là do xuồng;
chứ thuyền vẫn thế, vẫn đi
Có khi thuyền đến bờ trước, có khi xuồng đến
bờ trước
Có khi xuồng ở trên thuyền, có khi xuồng tách
xa khỏi thuyền, ấy là do pháp môn.
Có khi người đi trên xuồng này, lại chửi
người đi trên xuồng kia; tất nhiên là đã có đánh nhau.
Có khi người lái xuồng, đi lòng vòng, thậm
chí xoay, quay lại
Có khi người lái xuồng chạy thẳng đến bờ
Đi thuyền, và cái xuồng nào, cũng phải ăn mới
đi được.
Thuyền còn đi những cả tỷ tỷ năm nữa, cho nên
người trên thuyền còn phải yêu nhau và sinh đẻ con cái, lao động…
Có người đi trên xuồng, bảo mình là Thượng
đế, là Đạo, là cao hơn Thượng đế…chưa ai đi trên xuồng nhận mình là tà ma, vì
họ có tình yêu Thượng đế…
Có người tưởng cái xuồng to hơn thuyền, có
người tưởng thuyền xấu hơn xuồng, hoặc đẹp hơn xuồng, có xuồng sạch, xuồng bẩn;
đôi khi xuồng sạch, nhưng bảo bờ chả phải là bờ, thuyền chả phải là thuyền;
hoặc có khi xuồng bẩn, nhưng biết bờ ở chỗ nào, nhưng lại đi lộn trở lại. Đôi
khi đi sai đường mà không biết, hoặc đi sai đường có biết nhưng không sử, hay
cố tình đi sai đường.
Có người bảo đến bờ có đầy hoa trái thơm
ngon, có người bảo đến có thịt, gái, rượu ngon, vì điều đó, hãy hy sinh tất cả
mạng sống đi!
Có người đi trên thuyền đã thấy Thượng đế, có
người đi xuồng hết kiếp này đến kiếp khác mà vẫn chưa nhìn thấy Thượng đế. Tất
nhiên là chưa đến được bờ.
Có người bảo chỉ họ mới có Thượng đế, Thượng
đế của họ, người khác không có Thượng đế.
Có người nhảy xuống xuồng này, chán rồi lại
nhảy xuống xuồng khác. Vui mừng có, thất vọng có, đến bờ thì mới được rất-rất
ít trong lịch sử loài người.
Có người khinh bỉ thuyền, nhưng vẫn phải lấy
thức ăn từ thuyền. Thuyền có cái sợ dây rất chắc nối thuyền và xuồng, ấy là sự
sống.
Có người được Thượng đế dẫn đường, có người
được ma dẫn đường.
Có người nhầm Thượng đế cứ tưởng là ma, nhầm
ma là Thượng đế.
Không sao, cả thần thánh hay quỉ ma cũng là
Thượng đế!
Người đi trên thuyền hoặc xuồng, có khi đánh
nhau ra trò, cãi nhau, hoặc ca hát, yêu thương nhau; có người bị sóng xô ngã
xuống lại đứng lên, có người đứng lên lại ngã xuống, đau-ấy là bài học phải
trả, phải học. Càng thích leo lên ngồi trên nóc thuyền, hay ăn nhiều, thì càng
học nhiều.
Trên thuyền, hay trên xuồng, thì luôn luôn có
người thích leo lên ngồi trên cao. Ai cũng vừa đi vừa học. Ngồi trên cao có
ích, hoặc không có ích, là do người ngồi, chứ không phải do chỗ ngồi. Ngồi chỗ
nào cũng học được.
Học đến khi nào? Đến bờ. Học bao lâu?
Thời gian có lẽ còn rất lâu, khi không còn
non người trên trái đất, thì con người mới hết phải học như thế.
Có người học xong ngay khi trên thuyền, chứ
chưa cần đến xuồng, đến bờ khi ở ngay bên cạnh người khác, mà người khác không
biết.
Gọi là đắc Đạo.
Có người Đắc đạo rồi tưởng là chưa đắc, có
người chưa đắc lại nói mình đắc. Có người tham đến bờ nhanh, có người bình thản
đi, đến được đâu thì đến. Có người nhịn ăn để đi, có người nhịn đi để ăn.
Đến bờ thì chuyển sang học thứ khác ngoài
thuyền.
Có người kính Thượng đế, mà chẳng hiểu gì về
Ngài, hoặc không tin Ngài có thật.
Có người lại bảo Ngài là ông vua bé.
Có người bảo Ta là cao nhất, không có Thượng
đế, không linh hồn…
Có người đi trên thuyền nhiều lần mà nói
không có đầu thai, luân hồi…
Họ nhận thấy Thượng đế có khuôn mặt, tính
cách, màu sắc khác nhau, rồi tự đặt tên cho Ngài khác nhau.
Thượng đế từ bi tuyệt đối và mỉm cười tuyệt
đối!
Người bảo: Ta là các con, các con trong tay
ta, bơi trong bàn tay Ta.
Ta sáng tạo ra các con và cái thuyền này, tất
nhiên là mọi cái xuồng…
Không tin, cứ đến bờ sẽ hiểu.
Người đi trên thuyền, đã là thần thánh, tiên
phật, quỉ ma.
Có xuồng đi được dài, có xuồng đi được ngắn.
Có người không đi trên cái xuồng nào, họ bảo
là không tôn giáo-nhưng họ cũng đang đi trong và theo Đạo-Định luật Tự nhiên,
chứ có nằm ngoài vòng ấy đâu.
Trong Đạo có Đời. Thượng đế là Tất cả.
Ai hiểu được Đạo?
Làm thế nào mà tất cả mọi người trên cái
thuyền Đời ấy đều hiểu đúng về Thượng đế và mình, vứt tất cả các xuồng kia đi,
rồi cùng chèo một lượt, có ăn, có yêu, có sinh đẻ, có cùng tiếng Hát: Ta là
Thượng đế, mọi người cùng một Hướng, biến Thuyền thành giống như bờ, rồi cứ đi
tiếp.
sẽ đi nhanh hơn, chở được nhiều hơn?
Đó là Thời đại Thánh Đức. Đó là Thiên Đạo.
Tại sao chúng ta xưng Thiên Đạo, Ta nói không là tôn giáo là như vậy! Thiên Đạo
cao hơn mọi tôn giáo đã có, vì nó là cả Đạo và
Chính
pháp là xây Đời. Rất dễ hiểu phải không những người con yêu của Thượng đế?”
· 103-Loạn tâm tất loạn
khí; khí loạn tâm càng loạn. Tâm dừng thì mọi sự dừng, tâm động mọi sự động.
Khi luyện Huyền công, xuất hiện nhiều ảo ảnh, phải coi đó là ma mị, ma tâm mà
ra-không thật. Đến khi xuất hồn lên cao, quán chiếu thất tất cả, thấy cái mình
muốn thấy, đó mới là thực.
· 104-Khi xuất hiện ý
nghĩ xấu, thì tất nhiên có hình tư tưởng xấu. Người có trình độ cao và hiểu
được Luật Nhân quả, phải tìm cách phá hình tư tưởng, dẹp ngay tư tưởng xấu đó
đi, vì chúng sẽ làm xuất hiện nghiệp báo-luân hồi về sau. Phải biết cách cân
bằng nghiệp bằng tình yêu vô hạn với chúng sinh, kẻ thù mình, ban rải tình
thương cho họ, giúp họ nhận thức giác ngộ và tiến hóa-đó là cân bằng nghiệp của
mình. Mình lấy lại những thứ mình đánh mất bằng tình thương đó. Sau đó phải cân
bằng tâm-khí-nghiệp-tịnh không-thiện ác cân bằng=không nơi tâm, đan điền, rồi thoát bay lên tĩnh lặng Vũ trụ-đi
xuyên lên thật cao-chứng đắc giác ngộ định luật Vũ trụ nơi Trung Phương. Là
thoát Luân hồi, là thành Phật vậy! Đó là Niết bàn trên cao.
· 105-Tịnh tâm thì
nghiệp tịnh. Chúng ta xây đời thì tâm không tịnh lặng mà tâm tịnh thiện. Tịnh
thiện, sinh nghiệp thiện, nghiệp thiện sinh công quả; công quả cùng tu luyện
Huyền pháp để tự tiến hóa, chứng ngộ, đấy là siêu thoát, hồi về Thiên giới.
· 106-Chúng ta hình
dung thế nào về kiếp nghiệp quả, luân hồi. Trong kinh đã lý luận kỹ. Ở đây Ta
lấy ví dụ thế này: Cha-Thiên giới là quê hương, nhà. Cha chiết linh ra, cho
chúng ta đi đầu thai, học hỏi, tiến hóa để trở về. Vậy luân hồi là quãng đường
phải đi. Tôn giáo, các pháp là phương tiện để chúng ta đi. Khi đi, thì tạo
nghiệp, sinh ra quả, trả quả thông qua và ở trong luân hồi các kiếp, vừa đi vừa
học. Nhân quả là học phí phải trả trên đường. Đến khi nào học mãn, thấy chán
Luân hồi, trong đó có đau khổ, đắng cay, hạnh phúc, danh lợi, mọi mưu toan,
thấy cần tịnh lặng, nhồi đức, tiến trí để thoát cái đường luân hồi này, là biết
về Chân lý. Tu luyện để thấy rõ toàn bộ cái diễn tiến ấy cùng Định luật Vũ
trụ-ấy là Giác ngộ. Giác ngộ rồi, giữ được cái chế định nhận thức và giữ được
mình trong Đời-ấy là Đĩnh ngộ. Mãn trần, vẫn giữ được Đĩnh ngộ ấy là Đắc vị Đắc
đạo, về Cha-tức về nhà. Về nhà rồi, thì làm gì? Phải đi học hỏi tiến hóa tiếp,
có khi trở lại Hạ giới trong cơ thể vô hình để độ nhân, độ hạ thế-ấy là Thần
thánh tiên phật. Muốn đầu thai cúu thế, thì phải làm người. Làm người mà lại ô
nhiễm, lại đọa Luân hồi; không ô nhiễm thì đắc vị hồi Cựu vị!
Vậy người đời, đến khi nào sợ đau khổ, sợ
chiến tranh, thối nát, thì gọi là biết sợ luân hồi. Khi sợ biết sợ luân hồi, thì
bắt đầu biết sợ tạo nghiệp xấu; biết sợ nghiệp xấu, thì bắt đầu sợ cả ý xấu,
hành động xấu, lời nói xấu. Biết sợ như vậy, thì chưa đủ, phải biết thương
thân, thương thân rồi thì biết tha nhân-tức thương người, sống vì người khác.
Khi bước vào tu luyện thấy được Chân lý thì mong muốn lập bồi công đức, cứu thế
xây đời, biết thương Cha Mẹ Trời. Nếu không thương Cha Mẹ Trời, thì chưa thể
nói là biết Định luật, Giác ngộ. Rồi tìm Thượng đế ở đâu? Ngay tại mình-linh
hồn. Khi linh hồn mình hòa nhịp như Thượng đế, giống Thượng đế, thì mình thấy
được Thượng đế, mình là Thượng đế. Ấy là phép Thông linh-trực thông Thượng đế.
Khi đã trực thông rồi, thì mãn trần sẽ về ngay Thiên Thượng-hòa cùng Thượng
đế-tức là thoát luân hồi vậy!
Chân Thiện Mỹ là Đạo Hằng của Cha. Thời Thánh
Đức, muốn có Chân Thiện Mỹ hoàn toàn, cho cả con người, xã hội, muôn vật, thì
không có con đường nào khác là Đại Đồng-Đại Thiện-Đại Mỹ-Đại Linh.
· 107-Quá trình tu
luyện là quá trình giác ngộ dần. Khi giác ngộ, thì cần biết cân bằng nghiệp-tức
là không tạo ra nghiệp xấu nữa, tìm mọi cách để trả nghiệp xấu của kiếp này,
kiếp trước, bằng cách nào: Thương yêu vô lượng chúng sinh, thương yêu vô điều
kiện chúng sinh, lấy đức báo oán, phá mê muội vô minh, chấp ngã, ngã mạn, tạo
phúc nhồi đức luôn luôn; hóa giải cái xấu, cứu vớt chúng sinh bằng sự phổ giáo,
giác ngộ, tu luyện, siêu thoát giáo hóa vong nhân, ăn chay để xóa nghiệp sát
sinh và sinh lòng từ bi với chúng sinh…Chưa hết, phải biết đấu tranh với cái
xấu để cải tạo nó. Chấp với nó để cải thiện nó, chứ không hành nó để nó đọa
thêm…ấy là phép của người giác ngộ Thiên Đạo.
· 108-Ta có một kinh
nghiệm: Bay lên cao và tịnh tâm quan sát trần giới, trái đất, bằng một tình yêu
vô bờ và lặng lẽ chiêm nghiệm, không hề phân biệt bất cứ điều gì, trong một sự
quán xuyến toàn vẹn và yêu thương, cảm thông toàn vẹn. Ta coi mọi sự với Ta,
hay đời sống nói chung là như nhìn một cái chợ=tức là chợ đời. Trong chợ ấy, ai
cũng hoạt động, mưu cầu, họ có lý của họ và ta đừng làm họ xấu đi, thay vì làm
họ tốt lên. Tôn trọng mọi trạng thái đang tiến hóa của họ. Dù đứng im cũng là
đang quay trong vòng quay tạo hóa. Hoặc có kẻ vu váo, nói xấu hay chửi ta, thì
ta coi mình đã tiến hóa cao, ở trên cao rồi, chấp chi kẻ ở dưới, còn đang lạc
hậu tiến hóa chậm so với ta hàng vạn năm. Đạt được trạng thái này, thì tức là
ta phá bỏ mê chấp, ngã mạn, sân hận si mê thông thường…
Vậy ta hơn họ những gì: Đó là ta thoát ra
khỏi sự vô minh, hỗn loạn, chen lấn, hỗn hào…của đời vậy. Nhưng ta không bỏ nó,
ta không khinh, hay sợ nó. Mà ta dùng gậy trí năng, Cao Minh của Cha mà chọc
vào nơi đen, phá nơi bẩn và làm cho ánh sáng chan hòa hơn…ấy là ta hành Đạo!
Các người sau này cũng nên như vậy.
· 109-Nhập niệm Thiên
Phù vào người mình là ý nghĩa gì? Ai tu luyện Thiên Pháp chắc cũng biết Thiên
Phù tượng trưng cho Thượng đế, và cũng là bản nguyên của mình. Vậy nhập niệm
Thiên Phù trước là để tạo hình tướng hợp nhất thân thể bên ngoài với Vũ trụ,
trong thì là Thông linh linh hồn với Thượng đế. Cả xác thể-thân tâm hợp
nhất-tức là phép điểm đạo hòa nhập
vào Thượng đế, mình là Thượng đế, mình trong Thượng đế, Thượng đế trong mình.
· 110-Khi xuất hồn lên
cao, thì tìm hiểu bản thân mình trước, rồi đến trái đất, thiên hà, các thiên
hà, Vũ trụ, Đại Vũ trụ. Tìm hiểu xác thể trước, rồi đi tìm hiểu các cấp đẳng
linh hồn.
· 111-Giác ngộ-thậm chí
đắc Niết bàn Giải thoát rồi thì làm gì? Giác ngộ-mới chỉ là một bước thấp trong
tiến hóa-tức là cùng lắm là về lại nhà. Còn phải tu luyện tiếp, để thành Đại
giác ngộ-thành Thượng đế của một bầu Hành tinh, hay Thái Dương hệ, Thiên hà, hay
đi tạo dựng các hành tinh, Thiên hà, Vũ trụ-ấy là thành Đấng Toàn năng
mới-trong Đấng Đại toàn năng. Việc của Thiên Đạo tại trần này, là giúp cho dân
Thánh Đức Giác ngộ hoàn toàn và trở về Thượng giới. Trên các cấp cảnh cao hơn,
còn những thứ qui luật khác, luật tục học hỏi khác, tức là cấp Thiên Đạo cao
hơn, mà Ta không dạy các vị ở thời này. Việc đó thuộc về ngươn tiến hóa khác
của loài người, trong một tương lai khác, khi các vị đã thành thần tiên trong
cõi vô hình…
· 112-Luôn luôn nhìn
nhận đánh giá sự vật hiện tượng trong biểu hiện nhiều chiều, nhiều hướng, nhiều
góc độ; ở trong nó và ở ngoài nó, đặt địa vị ở trên, dưới, trong ngoài nó mà
đánh giá, thì mới hiểu biết được hết, mới không đánh giá sai lầm, phiến diện,
một chiều. Phải đặt nó trong trạng thái quá khứ, hiện tại, vị lai, trong hoàn
cảnh cụ thế, bối cảnh chung-riêng, hữu hạn, dài hạn, trong hạn thể và toàn thể,
thì mới không mê muội, vô minh, duy ý chí, nóng vội. Phải nhìn được cả hữu vi
và vô vi-tức hữu hình và vô hình, cả xác thể và tâm linh-thì chúng ta mới đánh
giá được tốt xấu hay dở. Thấu được túc mạng thông là thấu được số phận mọi sự.
Chân lý là cụ thể, bất biến. Sự thật là một, không thể có hai sự thật. Cho nên,
còn mê muội, thì còn sai lầm. Chớ sợ mê muội sai lầm, vì chúng ta đang tiến hóa
học hỏi; nhưng phải dũng cảm nhận và sửa sai, dũng cảm thành thực sám hối, thì
mọi sự mới sáng ra, tiến bộ, nếu không sẽ thành phản động, lạc hậu-tất đọa vào
đường ác và ghánh nghiệp xấu.
· 113-Tu tâm là gì? Là
tu linh hồn mình. Linh hồn là chủ mình. Tu linh hồn, cái chính biểu hiện của nó
là tu tư tưởng-nhận thức-tức là tu tâm. Tư tưởng nhận thức quyết định nghiệp
quả, hành vi hành động, quyết định Vũ trụ. Thượng đế là linh hồn Vũ trụ. Khi
biết rằng, một ý nghĩ của chúng ta có thể làm rung động Vũ trụ, thì sẽ biết
giác ngộ mà hành tâm thiện! Khi nhìn thấy hình tư tưởng, thì biết sợ ý nghĩ
xấu, thể vía xấu; khi biết sợ thể vía xấu, cũng là biết sợ nghiệp xấu. Ta có
nhiều lúc bay lên phá hình tư tưởng xấu của mình, Ta đã từng đi thu hồi các
hình tư tưởng xấu của mình, phá tan bầu tư tưởng khối trọc khí-tưởng khí xấu
của loài người trên bề mặt trái đất để tạo quả lành cho trái đất, bớt nghiệp
lực cho chúng sinh. Đến khi hành đạo đến cấp này, các vị thấy và hiểu được Định
luật và Chân Lý, và có thể hiểu được Đạo pháp hơn, hiểu thầy hơn! Rồi phải luôn
luôn tạo ra hình tư tưởng tốt-tức ý nghĩ tốt-ấy là biết Đạo.