Menu

Thứ Hai, 22 tháng 8, 2016

GIÁC NGỘ SIÊU THOÁT VÀ ĐĨNH NGỘ NHẬP THẾ

I-GIÁC NGỘ SIÊU THOÁT
Chúng ta từng nghe nhiều lần khái niệm giác ngộ, siêu thoát khi Ta nói, của các tôn giáo, các kinh sách của loài người hàng vạn năm qua. Vậy siêu thoát, giác ngộ là thế nào?
Theo quan niệm của bản tôn Ta, có nhiều cấp giác ngộ, siêu thoát.

Giác ngộ thấp:
Khái niệm giác ngộ: Là khả năng nhận thức và trình độ học tập, tu luyện đến mức nhận ra Chân Lý Vũ trụ (Chân lý Tuyệt đối) và Chân Lý bản ngã (Chân lý tương đối). Trong đó, Chân lý Tuyệt đối là: Nhận thức và hiểu biết toàn diện về qui luật, định luật Vũ trụ như kinh sách Thiên Đạo, nhận thức sâu sắc về Vua Cha Thượng đế vĩ đại, luật Luân hồi, Nhân quả, Ba qui luật hợp nhất thành Đạo Trời. Thấy mình là một phần tử nhỏ bé, tất yếu và bất tử của Vũ trụ. Là tiểu ngã trong đại ngã, tiểu hồn trong đại hồn, là tiểu Thượng đế trong Thượng đế, trong ta đã có Cha, là một phần của Cha…Giác ngộ rằng: Không ai chết cả, chỉ luân hồi theo luật luân hồi nhân quả, mọi vật chất khác cũng thế.
Muốn tiến hoá về hợp nhất với Cha, tức không còn luân hồi, hay thành chính giác cao, thì phải tu luyện cá nhân và cải tạo xã hội, sống hoà đồng với nhân loại, là Một, Vũ trụ là Một, nhân loại là Một. Từ đó loại bỏ bản ngã ích kỷ, kiến tính riêng xấu, để sống vì mọi người, không ham giải thoát lánh đời, mà cùng tu luyện cứu vớt giúp đỡ người khác, cải tạo xã hội thành tốt đẹp an lạc-đó là cách tốt nhất để cứu vớt, cứu độ nhiều người nhất.
Chân lý bản ngã (Chân lý tương đối): Thấy mình là một thực thể của Vũ trụ, xã hội, có bản ngã riêng, giao hoà trong bản ngã chung (Thượng đế)-dù có về hợp với Cha-tức Niết bàn-Thiên đường-thì cũng cũng vẫn có cá tính riêng, chứ không tan rã hay thành hư vô. Ta là ta, chứ không phải là ai khác; kể cả khi linh hồn bỏ xác, thì cũng mang một bản ngã riêng, có đẳng cấp khác nhau.
Từ đó có phương pháp tu luyện, phấn đấu cho nghiêm, có tài năng riêng, có mưu cầu hạnh phúc riêng, tình yêu, nghĩa vụ, số phận riêng trong xã hội. Tìm và xây hạnh phúc trong hạnh phúc chung.
Đây là giai đoạn giác ngộ thấp của người Thiên Đạo, nhưng đạt được giác ngộ này, phải có tinh thần tu luyện đạo đức và tự giáo dục ghê gớm; học tập, nghiên cứu kinh sách nhiều và tu luyện Thiên Pháp tốt, làm đủ 9 điều Không phạm mới thấy được những điều Ta nói.


Siêu thoát bậc thấp: Sau khi thấu ngộ, giác ngộ, thì nảy sinh nhận thức và tình cảm không ham muốn gì nhiều, ít ra là cho bản thân mìn; sợ tranh dành bon chen, ăn nhiều thì nhanh già, nhanh chết, luyện khí càng khó, thêm bệnh; tham danh ô lại, đấu đá buôn bán…chỉ thêm mệt mỏi, tất cả chỉ là bèo bọt mây chớp ở đời, vì linh hồn bất tử, phải trả quả, thế thì sao phải sống gấp, tranh dành để sống để mắc nghiệp. Và vấn đề là chúng ta xuống thế đầu thai kiếp này là gì? Mục đích gì? Đó là học hỏi, tầm đạo để tu luyện, để tiến hoá cao, kiếp này đắc đạo là cái tốt, nếu không thì cũng chớ sa vào đường tà ác, sau bị đoạ đày…
Đời như một giọt nước bay trong không gian và thời gian rất ngắn, trong khi chúng ta từng làm người qua bao kiếp số, chỉ sợ không tầm được sư, học được chính đạo, hoặc lỗi Đạo, muộn, để mất cơ hội tu luyện, kiếp sau lại đoạ trần mà học lại…Đặc biệt, khoong tu luyện tốt, khi mãn kiếp, linh hồn cấp thấp bị đoạ đầy đau khổ thế nào!
Hiểu và nhận thức được như thế, là đã giác ngộ, sẽ sợ làm ác, giữ mình mà lánh các việc bất thiện; sau nữa, nếu được tu luyện đắc thần thông thì thành Chính giác cao. Không đắc thần thông tại thế, tất không thành chính giác cao-trừ một số người đã có sẵn nhân duyên và thiện huệ từ trước.
Từ đó thấy vui vẻ yêu đời, yêu quí mọi người, thương người, thương cả cái kiếp số của mình, thương kẻ nghèo khổ, không khinh người nghèo khổ, hư dốt, thậm chí thương cả kẻ thù của mình, vì họ vô minh, họ bị khổ vì hại ta, họ sẽ bị đoạ, giống như kẻ mù quáng, không biết đường đi…
Mình tự hào là bất tử, không sợ chết, không tham sống, tham mọi sự; đặc biệt không cần phải hờn giận, khổ đau lâu, tiếc nuối quá cái gì quá, vì không có cái gì mất hết cả, chỉ là sự chuyển hoá mà thôi; không khát thèm thái quá cái gì cho riêng mình, không dẫm đạp lên người khác để sống
Giác ngộ và siêu thoát bậc cao:
Lẽ ra vấn đề này Ta để cho học trò tự tu luyện rồi chứng ngộ, nhưng Ta nói ra để các vị biết đường mà tu cho tốt và tin tưởng ở con đường giác ngộ Chân lý. Nhưng Ta cấm học trò không khoe khoang với ai về việc đã thấy gì, được gì; phải tự mình tu, rồi cảm nhận, cấm kiêu căng.
Giác ngộ và siêu thoát cao cấp tại thế chỉ bằng cách tu luyện Huyền pháp-khai mở năng linh mới thấu được. Khi khai huệ nhãn, biết xuất thần, xuất hồn-vía lên cao, nhìn thấy mọi sự, thấu sự đời, soi lại lương tâm bản thể, sẽ sinh cảm giác như sau:
-Tất cả kinh sách của các tôn giáo, hay Pháp chúng ta trở lên thừa thãi, không cần thiết nữa hoặc không cần đọc nữa, nó chỉ là cái cần thiết nền tảng ban đầu cho việc tu tập mà thôi. Khi “bay” lên tận thiên hà xa xôi, thấy được Vũ trụ, thấy trái đất nhỏ bé đến vô hình, ta hòa nhập, chu du và hòa vào cái tĩnh lặng, tuyệt đối rộng lớn, toàn hợp với Vũ trụ-là Một-nhưng vẫn có trí tuệ riêng; có cảm giác ta mất cái tôi bản ngã riêng, cái tôi đó là cái tôi trong bản ngã chung của Vũ trụ, nhưng ta vẫn tồn tại, không mất cái riêng, vì mình vẫn còn ý thức. Lúc đó ta biết chắc rằng: Khi ta bỏ xác trần, thì ta như thế này, linh hồn ta bất tử, với khả năng thần thông thế này…Ta có ý chí riêng-là cá thể rất nhỏ trong mênh mông-hòa hẳn vào mênh mông của Tạo hóa. Ta là ta, cũng không phải là ta nữa. Ta nhìn rõ xác trần của ta-nó sẽ là cái áo ta sẽ cởi ra khi mãn kiếp. Ta có thể thấy các vong hồn, thần thánh, thậm chí được may mắn nhìn thấy Vua Cha vĩ đại, mới thấy cõi vô hình vĩ đại. Ta thấy mình có một sứ mệnh trong vũ trụ. Và chúng ta thấy, các qui luật cùng kinh sách thầy viết đúng như thế-nay trở lên thừa, vì đã thấu Đạo, giác ngộ hoàn toàn-đây là giác ngộ cao cấp.
Hóa ra, qui luật Vũ trụ vĩ đại thật, mọi sự sinh sinh hóa hóa, thoắt đến thoắt đi, luân hồi vô biên, biến ảo vô cùng; thấy rằng, sự thực là tất cả các đạo giáo cùng một gốc, cùng là dạy con người trở lên toàn giác đến thế này, tôn giáo không phải là cứu cánh cho con người, mà là cách, phương tiện để giúp con người đạt giác ngộ, thấy kính trọng các minh sư, thần thánh tiên phật đi trước chúng ta. Mọi kinh sách, cái pháp…đều là hình tướng, nhưng không có pháp, không có huyền pháp, thì người tu hành thường tu không đạt đạo. Biết rằng: Trái đất, thân xác người…là thể vật chất đậm đặc nhất, ô trọc nhất, linh hồn bất tử, và khi xuất hồn thấy rõ thể vía đen, xấu hôi trọc, hay trong sáng thanh cao là do tâm-tu xác-luyện ( mỗi tâm tu không đủ đắc Đạo, hay mỗi luyện xác không đủ đắc Đạo, mà phải tâm tu, xác luyện; còn tu hành không tâm tu, xác luyện tất không thành Đạo, dù có vào chùa, hay lên núi tu tiên cũng thế thôi), mới thấy tại sao phải ăn chay, thanh lọc cơ thể mới đắc pháp (chứ không phải cố tình ăn chay-chỉ là hình tướng). Chúng ta sẽ thấy, cái chợ đời hỗn tạp đáng thương (đáng thương chứ không đáng ghét), ta trung dung ngồi trên cái chợ đó, lặng ngắm quan sát, tách mình ra, thấy thanh thản vô biên, thương và sợ thói tham tàn và mọi trò đời đen bạc khác, vì nó vô nghĩa hoàn toàn với ta lúc này, ta không thiện, không ác, không tức, không ghen, không cần và không cần ai khen ngợi, không cần danh nổi, chả ghét kẻ ghét mình, nghe lời chê không ghét, nghe lời khen không mừng; đường còn dài lắm, đắc ngộ mới chỉ là bước đệm để thực hành Đạo mà thôi; sống bình thản và công bình đánh giá mọi sự một cách minh triết nhất, không có nghiêng lệch; ta thấy không cần gì cả, ta sợ cả sự ràng buộc của thế gian-thấy sự an lạc vĩnh cửu-hay đây chính là trạng thái Niết bàn của Đạo Phật, hay siêu thoát cao độ-tất nhiên là hoàn toàn không sợ phải chết nữa. Sợ sát sinh, vì thấy mọi vật đều có linh hồn; sợ làm bẩn hồng trần và xác thể mình…
Đây là trạng thái giác ngộ cao nhất, siêu thoát cao nhất, ứng với trình độ tu luyện cao cấp, gọi đó là thành Đạo. “Thành Đạo” chung cho mọi tôn giáo, mọi tu sỹ, đạo sỹ, nhà tu hành…
Nếu mãn kiếp, người tu đến bậc này sẽ thăng lên các cảnh giới rất cao, cúng chay hoàn toàn; các tín hữu biết mình sẽ đến đâu rồi…
II- Đĩnh ngộ nhập thế:
Thiên Đạo của chúng ta Đạo đời song tu, không bỏ tục trần, lánh đời hưởng lạc thú an lạc, mà phải nhập thế xây đời bằng Chính Pháp, thì sau khi chúng ta đạt trạng thái cao quí này rồi, vẫn phải quay về thực tế cuộc sống để sống trong một đời sống chúng sinh với đủ thói tật hàng ngày. Chúng ta lại có gia đình, chồng vợ, con cái, lo ăn mặc lao động sản xuất; chống cái ác trong lòng, cái ác ngoài đời…
Vậy phải làm thế nào? Thánh Đức thần tiên tại thế là thế nào? Hay là lên núi tu tiên, vào chùa tu hành? Không được, vì Chính pháp. Vậy chúng ta phải Đĩnh ngộ nhập thế.
Đĩnh ngộ là thế nào? Là Đĩnh đạc giác ngộ, tức là đĩnh đạc tâm trí, nhận rõ ranh giới, giá trị của Pháp, của đường tu luyện bản thân, hòa đồng cùng đời sống, nhưng không vào hùa, lặn ngụp trong đó với mọi thói đời thường tình; nhưng thật giản dị, chân thành trong cuộc sống, chứ không kiêu hợm cá thế, đĩnh ngộ rất quan trọng; nhiều người thiền tu rồi, vì thấu ngộ, thành ra khinh đời, khinh kẻ bần tiện, hóa thành hâm hâm, thích giảng đạo, thích triết lý vụn vặt, nói đến cái cao siêu, khi chân mình còn lấm đất, chưa thoát được tục giới.
Thấy cái gì cũng không như ý mình, thành ra khó chịu với mọi thứ, muốn thoát tục cho nhanh. Lại nữa, có người khi giác ngộ rồi, nhưng sau một thời gian, không giữ được lòng thanh, có tham luyến mọi thứ tạp bậy, danh vọng, thậm chí có kẻ dùng huyền thuật thần thông làm việc bất chính, hại người thiện, tất đoạ sang đường tà.
Ranh giới thiện ác, chính tà phải xác định cho thật rõ: Càng đắc đạo cao thâm, càng ít lời, càng ít nóng giận, càng ít phàm thói; không tranh biện dông dài; cấm tranh biện và triết vụn, khoe ngộ năng linh; trổ tài huyền thuật. Yêu thương con người, sống vì mọi người, không tham mọi sự, không khinh thường cuộc sống trần ai, mà cải hoán nó-vì nó là trường học, cái nôi muôn đời, sao bỏ nó được. Đó là thiện, còn ngược lại là tà. Ta cấm các đệ tử bỏ đời, ham thoát tục; mà giải thoát bằng cách tâm tu hằng ngày, bằng cách thiền công, rồi giữ mình trong cuộc sống; gắng làm mọi việc có ích nhất cho mình, gia đình và cộng đồng một cách chân chính. Ta nhắc lại: Đắc ngộ-giải thoát chỉ là bước đệm thành công để hành đạo-tức là thực hành Chính Pháp xây đời tại thế! Thánh Đức thần tiên tại thế là như vậy. Cho  nên, Thiên Đạo khác xa các pháp môn ở lý đó.
Khai nhãn, đạt thần thông, chỉ là một bước tiếp của con đường tu luyện. Ta ngay từ đầu nổi Pháp, đã nói, chỉ cứu bệnh và tâm linh một thời gian, để thiên hạ biết đường, rồi để dạy học trò. Có lúc triển khai thần thông, cốt cứu đời, mở Pháp, không vì danh lợi tầm thường.
Đĩnh ngộ nhập thế, tức là sống để cải tạo bản thân-xã hội; nếu không đĩnh ngộ, nhận thức giác ngộ hàng ngày, khi thiền công tự sám hối, tự soi rọi lại tâm-thể, mình thấy cái đúng sai hay dở ta đã làm được thế nào, rút kinh nghiệm ra sao, thanh lọc ra sao, khí chất nội ngoại vía tốt hay xấu, tư tưởng thanh trọc hay dở gì…Chớ cầu khấn, kinh kệ nhiều, phải tự cứu mình trước khi Trời cứu. Cứu mình là nâng cao mức năng lượng bản thân, đức năng thắng số bằng hành đạo thiện lương, tu luyện khí công siêu đẳng, tất được khỏe mạnh, thanh tươi, phúc thọ an vui. Rồi khi hiểu và ứng dụng được năng lượng-tâm linh trong cuộc sống, sẽ thấy không cần chọn hướng nàh, chọn tuổi vợ chồng, chọn ngày tốt xấu, rồi yểm đảo, giải hạn cúng sao cúng vía, đốt vàng mã là thừa thãi, vô nghĩa đối với chúng ta; cúng tà thần, cúng mặn là tà môn, mê tín ngu muội, càng hại thêm cho vong hồn; mới hiểu Vua Cha và Ta, các thầy dạy đúng. Tự mình xử lý mọi việc, coi trò bói toán, mê tín chỉ là nhảm nhí, vì mình tu luyện tốt, sẽ biết mọi chuyện, mình nắm được số mệnh cũng như con đường của mình, số phận trong tay mình. Mới thấy Ta cấm học trò ngồi đồng, giở trò bói toán, thực hành huyền thuật kiếm ăn là đúng đắn. Ta cấm muôn năm sau; kẻ nào không làm đúng, tất không phải là thần dân Thiên Đạo, phải đuổi cút chúng khỏi Thánh Đức, nếu không sẽ phá Đạo, phá Pháp, phá Thánh Đức. Tại sao như thế, học Luật Đạo để hiểu thêm.
Muốn thế, ngày nào cũng phải tui luyện Đại Pháp Tâm Công, xuất vía lên Kim Tự Tháp trên Trung giới của chúng ta mà tu, học thêm, rồi lại trở về trần mà hành Đạo; lọc sạch bụi tâ, tẩy sạch khí ám ra khỏi người hàng ngày, để tâm hồn thể vía thật sạch sau mỗi ngày nhập thế; cùng nhân loại tiến bộ tiến lên! Ấy là đời đạo song tu. Đó là cứu mình, rồi cứu người, muôn thế hệ, khi nào loài người còn sống ở Hạ giới được, thì còn phải đạo đời hợp nhất!
Ta gieo Pháp này cho nhân loại, cốt ở việc ấy mà thôi!