I-GIÁC NGỘ SIÊU THOÁT
Chúng ta từng nghe nhiều lần khái
niệm giác ngộ, siêu thoát khi Ta nói, của các tôn giáo, các kinh sách của loài
người hàng vạn năm qua. Vậy siêu thoát, giác ngộ là thế nào?
Theo quan niệm của bản tôn Ta, có
nhiều cấp giác ngộ, siêu thoát.
Giác ngộ thấp:
Khái niệm giác ngộ: Là khả năng
nhận thức và trình độ học tập, tu luyện đến mức nhận ra Chân Lý Vũ trụ (Chân lý
Tuyệt đối) và Chân Lý bản ngã (Chân lý tương đối). Trong đó, Chân lý Tuyệt đối
là: Nhận thức và hiểu biết toàn diện về qui luật, định luật Vũ trụ như kinh
sách Thiên Đạo, nhận thức sâu sắc về Vua Cha Thượng đế vĩ đại, luật Luân hồi,
Nhân quả, Ba qui luật hợp nhất thành Đạo Trời. Thấy mình là một phần tử nhỏ bé,
tất yếu và bất tử của Vũ trụ. Là tiểu ngã trong đại ngã, tiểu hồn trong đại
hồn, là tiểu Thượng đế trong Thượng đế, trong ta đã có Cha, là một phần của
Cha…Giác ngộ rằng: Không ai chết cả, chỉ luân hồi theo luật luân hồi nhân quả,
mọi vật chất khác cũng thế.
Muốn tiến hoá về hợp nhất với
Cha, tức không còn luân hồi, hay thành chính giác cao, thì phải tu luyện cá
nhân và cải tạo xã hội, sống hoà đồng với nhân loại, là Một, Vũ trụ là Một, nhân
loại là Một. Từ đó loại bỏ bản ngã ích kỷ, kiến tính riêng xấu, để sống vì mọi
người, không ham giải thoát lánh đời, mà cùng tu luyện cứu vớt giúp đỡ người
khác, cải tạo xã hội thành tốt đẹp an lạc-đó là cách tốt nhất để cứu vớt, cứu
độ nhiều người nhất.
Chân lý bản ngã (Chân lý tương
đối): Thấy mình là một thực thể của Vũ trụ, xã hội, có bản ngã riêng, giao hoà
trong bản ngã chung (Thượng đế)-dù có về hợp với Cha-tức Niết bàn-Thiên
đường-thì cũng cũng vẫn có cá tính riêng, chứ không tan rã hay thành hư vô. Ta
là ta, chứ không phải là ai khác; kể cả khi linh hồn bỏ xác, thì cũng mang một
bản ngã riêng, có đẳng cấp khác nhau.
Từ đó có phương pháp tu luyện,
phấn đấu cho nghiêm, có tài năng riêng, có mưu cầu hạnh phúc riêng, tình yêu,
nghĩa vụ, số phận riêng trong xã hội. Tìm và xây hạnh phúc trong hạnh phúc
chung.
Đây là giai đoạn giác ngộ thấp
của người Thiên Đạo, nhưng đạt được giác ngộ này, phải có tinh thần tu luyện
đạo đức và tự giáo dục ghê gớm; học tập, nghiên cứu kinh sách nhiều và tu luyện
Thiên Pháp tốt, làm đủ 9 điều Không phạm mới thấy được những điều Ta nói.
Siêu thoát bậc thấp: Sau khi thấu ngộ, giác ngộ, thì
nảy sinh nhận thức và tình cảm không ham muốn gì nhiều, ít ra là cho bản thân
mìn; sợ tranh dành bon chen, ăn nhiều thì nhanh già, nhanh chết, luyện khí càng
khó, thêm bệnh; tham danh ô lại, đấu đá buôn bán…chỉ thêm mệt mỏi, tất cả chỉ
là bèo bọt mây chớp ở đời, vì linh hồn bất tử, phải trả quả, thế thì sao phải
sống gấp, tranh dành để sống để mắc nghiệp. Và vấn đề là chúng ta xuống thế đầu
thai kiếp này là gì? Mục đích gì? Đó là học hỏi, tầm đạo để tu luyện, để tiến
hoá cao, kiếp này đắc đạo là cái tốt, nếu không thì cũng chớ sa vào đường tà
ác, sau bị đoạ đày…
Đời như một giọt nước bay trong
không gian và thời gian rất ngắn, trong khi chúng ta từng làm người qua bao
kiếp số, chỉ sợ không tầm được sư, học được chính đạo, hoặc lỗi Đạo, muộn, để
mất cơ hội tu luyện, kiếp sau lại đoạ trần mà học lại…Đặc biệt, khoong tu luyện
tốt, khi mãn kiếp, linh hồn cấp thấp bị đoạ đầy đau khổ thế nào!
Hiểu và nhận thức được như thế,
là đã giác ngộ, sẽ sợ làm ác, giữ mình mà lánh các việc bất thiện; sau nữa, nếu
được tu luyện đắc thần thông thì thành Chính giác cao. Không đắc thần thông tại
thế, tất không thành chính giác cao-trừ một số người đã có sẵn nhân duyên và
thiện huệ từ trước.
Từ đó thấy vui vẻ yêu đời, yêu
quí mọi người, thương người, thương cả cái kiếp số của mình, thương kẻ nghèo
khổ, không khinh người nghèo khổ, hư dốt, thậm chí thương cả kẻ thù của mình,
vì họ vô minh, họ bị khổ vì hại ta, họ sẽ bị đoạ, giống như kẻ mù quáng, không
biết đường đi…
Mình tự hào là bất tử, không sợ
chết, không tham sống, tham mọi sự; đặc biệt không cần phải hờn giận, khổ đau
lâu, tiếc nuối quá cái gì quá, vì không có cái gì mất hết cả, chỉ là sự chuyển
hoá mà thôi; không khát thèm thái quá cái gì cho riêng mình, không dẫm đạp lên
người khác để sống
Giác ngộ và siêu thoát bậc cao:
Lẽ ra vấn đề này Ta để cho học
trò tự tu luyện rồi chứng ngộ, nhưng Ta nói ra để các vị biết đường mà tu cho
tốt và tin tưởng ở con đường giác ngộ Chân lý. Nhưng Ta cấm học trò không khoe
khoang với ai về việc đã thấy gì, được gì; phải tự mình tu, rồi cảm nhận, cấm
kiêu căng.
Giác ngộ và siêu thoát cao cấp
tại thế chỉ bằng cách tu luyện Huyền
pháp-khai mở năng linh mới thấu được.
Khi khai huệ nhãn, biết xuất thần, xuất hồn-vía lên cao, nhìn thấy mọi sự, thấu
sự đời, soi lại lương tâm bản thể, sẽ sinh cảm giác như sau:
-Tất cả kinh sách của các tôn
giáo, hay Pháp chúng ta trở lên thừa thãi, không cần thiết nữa hoặc không cần
đọc nữa, nó chỉ là cái cần thiết nền tảng ban đầu cho việc tu tập mà thôi. Khi
“bay” lên tận thiên hà xa xôi, thấy được Vũ trụ, thấy trái đất nhỏ bé đến vô
hình, ta hòa nhập, chu du và hòa vào cái tĩnh lặng, tuyệt đối rộng lớn, toàn
hợp với Vũ trụ-là Một-nhưng vẫn có
trí tuệ riêng; có cảm giác ta mất cái tôi bản ngã riêng, cái tôi đó là cái tôi
trong bản ngã chung của Vũ trụ, nhưng ta vẫn tồn tại, không mất cái riêng, vì
mình vẫn còn ý thức. Lúc đó ta biết chắc rằng: Khi ta bỏ xác trần, thì ta như
thế này, linh hồn ta bất tử, với khả năng thần thông thế này…Ta có ý chí
riêng-là cá thể rất nhỏ trong mênh mông-hòa hẳn vào mênh mông của Tạo hóa. Ta
là ta, cũng không phải là ta nữa. Ta nhìn rõ xác trần của ta-nó sẽ là cái áo ta
sẽ cởi ra khi mãn kiếp. Ta có thể thấy các vong hồn, thần thánh, thậm chí được
may mắn nhìn thấy Vua Cha vĩ đại, mới thấy cõi vô hình vĩ đại. Ta thấy mình có
một sứ mệnh trong vũ trụ. Và chúng ta thấy, các qui luật cùng kinh sách thầy
viết đúng như thế-nay trở lên thừa, vì đã thấu Đạo, giác ngộ hoàn toàn-đây là
giác ngộ cao cấp.
Hóa ra, qui luật Vũ trụ vĩ đại
thật, mọi sự sinh sinh hóa hóa, thoắt đến thoắt đi, luân hồi vô biên, biến ảo
vô cùng; thấy rằng, sự thực là tất cả các đạo giáo cùng một gốc, cùng là dạy
con người trở lên toàn giác đến thế này, tôn giáo không phải là cứu cánh cho
con người, mà là cách, phương tiện để giúp con người đạt giác ngộ, thấy kính
trọng các minh sư, thần thánh tiên phật đi trước chúng ta. Mọi kinh sách, cái
pháp…đều là hình tướng, nhưng không có pháp, không có huyền pháp, thì người tu
hành thường tu không đạt đạo. Biết rằng: Trái đất, thân xác người…là thể vật
chất đậm đặc nhất, ô trọc nhất, linh hồn bất tử, và khi xuất hồn thấy rõ thể
vía đen, xấu hôi trọc, hay trong sáng thanh cao là do tâm-tu xác-luyện ( mỗi
tâm tu không đủ đắc Đạo, hay mỗi luyện xác không đủ đắc Đạo, mà phải tâm tu,
xác luyện; còn tu hành không tâm tu, xác luyện tất không thành Đạo, dù có vào
chùa, hay lên núi tu tiên cũng thế thôi), mới thấy tại sao phải ăn chay, thanh
lọc cơ thể mới đắc pháp (chứ không phải cố tình ăn chay-chỉ là hình tướng).
Chúng ta sẽ thấy, cái chợ đời hỗn tạp đáng thương (đáng thương chứ không đáng
ghét), ta trung dung ngồi trên cái chợ đó, lặng ngắm quan sát, tách mình ra,
thấy thanh thản vô biên, thương và sợ thói tham tàn và mọi trò đời đen bạc
khác, vì nó vô nghĩa hoàn toàn với ta lúc này, ta không thiện, không ác, không
tức, không ghen, không cần và không cần ai khen ngợi, không cần danh nổi, chả
ghét kẻ ghét mình, nghe lời chê không ghét, nghe lời khen không mừng; đường còn
dài lắm, đắc ngộ mới chỉ là bước đệm để thực hành Đạo mà thôi; sống bình thản
và công bình đánh giá mọi sự một cách minh triết nhất, không có nghiêng lệch;
ta thấy không cần gì cả, ta sợ cả sự ràng buộc của thế gian-thấy sự an lạc vĩnh
cửu-hay đây chính là trạng thái Niết bàn của Đạo Phật, hay siêu thoát cao
độ-tất nhiên là hoàn toàn không sợ phải chết nữa. Sợ sát sinh, vì thấy mọi vật
đều có linh hồn; sợ làm bẩn hồng trần và xác thể mình…
Đây là trạng thái giác ngộ cao
nhất, siêu thoát cao nhất, ứng với trình độ tu luyện cao cấp, gọi đó là thành
Đạo. “Thành Đạo” chung cho mọi tôn
giáo, mọi tu sỹ, đạo sỹ, nhà tu hành…
Nếu mãn kiếp, người tu đến bậc
này sẽ thăng lên các cảnh giới rất cao, cúng chay hoàn toàn; các tín hữu biết
mình sẽ đến đâu rồi…
II- Đĩnh ngộ nhập thế:
Thiên Đạo của chúng ta Đạo đời
song tu, không bỏ tục trần, lánh đời hưởng lạc thú an lạc, mà phải nhập thế xây
đời bằng Chính Pháp, thì sau khi chúng ta đạt trạng thái cao quí này rồi, vẫn
phải quay về thực tế cuộc sống để sống trong một đời sống chúng sinh với đủ
thói tật hàng ngày. Chúng ta lại có gia đình, chồng vợ, con cái, lo ăn mặc lao
động sản xuất; chống cái ác trong lòng, cái ác ngoài đời…
Vậy phải làm thế nào? Thánh Đức
thần tiên tại thế là thế nào? Hay là lên núi tu tiên, vào chùa tu hành? Không
được, vì Chính pháp. Vậy chúng ta phải Đĩnh ngộ nhập thế.
Đĩnh ngộ là thế nào? Là Đĩnh đạc
giác ngộ, tức là đĩnh đạc tâm trí, nhận rõ ranh giới, giá trị của Pháp, của
đường tu luyện bản thân, hòa đồng cùng đời sống, nhưng không vào hùa, lặn ngụp
trong đó với mọi thói đời thường tình; nhưng thật giản dị, chân thành trong
cuộc sống, chứ không kiêu hợm cá thế,
đĩnh ngộ rất quan trọng; nhiều người thiền tu rồi, vì thấu ngộ, thành ra khinh
đời, khinh kẻ bần tiện, hóa thành hâm hâm, thích giảng đạo, thích triết lý vụn
vặt, nói đến cái cao siêu, khi chân mình còn lấm đất, chưa thoát được tục giới.
Thấy cái gì cũng không như ý
mình, thành ra khó chịu với mọi thứ, muốn thoát tục cho nhanh. Lại nữa, có
người khi giác ngộ rồi, nhưng sau một thời gian, không giữ được lòng thanh, có
tham luyến mọi thứ tạp bậy, danh vọng, thậm chí có kẻ dùng huyền thuật thần
thông làm việc bất chính, hại người thiện, tất đoạ sang đường tà.
Ranh giới thiện ác, chính tà phải
xác định cho thật rõ: Càng đắc đạo cao thâm, càng ít lời, càng ít nóng giận,
càng ít phàm thói; không tranh biện dông dài; cấm tranh biện và triết vụn, khoe
ngộ năng linh; trổ tài huyền thuật. Yêu thương con người, sống vì mọi người,
không tham mọi sự, không khinh thường cuộc sống trần ai, mà cải hoán nó-vì nó là
trường học, cái nôi muôn đời, sao bỏ nó được. Đó là thiện, còn ngược lại là tà.
Ta cấm các đệ tử bỏ đời, ham thoát tục; mà giải thoát bằng cách tâm tu hằng
ngày, bằng cách thiền công, rồi giữ mình trong cuộc sống; gắng làm mọi việc có
ích nhất cho mình, gia đình và cộng đồng một cách chân chính. Ta nhắc lại: Đắc
ngộ-giải thoát chỉ là bước đệm thành công để hành đạo-tức là thực hành Chính
Pháp xây đời tại thế! Thánh Đức thần tiên tại thế là như vậy. Cho nên, Thiên Đạo khác xa các pháp môn ở lý đó.
Khai nhãn, đạt thần thông, chỉ là
một bước tiếp của con đường tu luyện. Ta ngay từ đầu nổi Pháp, đã nói, chỉ cứu
bệnh và tâm linh một thời gian, để thiên hạ biết đường, rồi để dạy học trò. Có
lúc triển khai thần thông, cốt cứu đời, mở Pháp, không vì danh lợi tầm thường.
Đĩnh ngộ nhập thế, tức là sống để
cải tạo bản thân-xã hội; nếu không đĩnh ngộ, nhận thức giác ngộ hàng ngày, khi
thiền công tự sám hối, tự soi rọi lại tâm-thể, mình thấy cái đúng sai hay dở ta
đã làm được thế nào, rút kinh nghiệm ra sao, thanh lọc ra sao, khí chất nội
ngoại vía tốt hay xấu, tư tưởng thanh trọc hay dở gì…Chớ cầu khấn, kinh kệ
nhiều, phải tự cứu mình trước khi Trời cứu. Cứu mình là nâng cao mức năng lượng
bản thân, đức năng thắng số bằng hành đạo thiện lương, tu luyện khí công siêu đẳng,
tất được khỏe mạnh, thanh tươi, phúc thọ an vui. Rồi khi hiểu và ứng dụng được
năng lượng-tâm linh trong cuộc sống, sẽ thấy không cần chọn hướng nàh, chọn
tuổi vợ chồng, chọn ngày tốt xấu, rồi yểm đảo, giải hạn cúng sao cúng vía, đốt
vàng mã là thừa thãi, vô nghĩa đối với chúng ta; cúng tà thần, cúng mặn là tà
môn, mê tín ngu muội, càng hại thêm cho vong hồn; mới hiểu Vua Cha và Ta, các
thầy dạy đúng. Tự mình xử lý mọi việc, coi trò bói toán, mê tín chỉ là nhảm
nhí, vì mình tu luyện tốt, sẽ biết mọi chuyện, mình nắm được số mệnh cũng như
con đường của mình, số phận trong tay mình. Mới thấy Ta cấm học trò ngồi đồng,
giở trò bói toán, thực hành huyền thuật kiếm ăn là đúng đắn. Ta cấm muôn năm
sau; kẻ nào không làm đúng, tất không phải là thần dân Thiên Đạo, phải đuổi cút
chúng khỏi Thánh Đức, nếu không sẽ phá Đạo, phá Pháp, phá Thánh Đức. Tại sao
như thế, học Luật Đạo để hiểu thêm.
Muốn thế, ngày nào cũng phải tui
luyện Đại Pháp Tâm Công, xuất vía lên Kim Tự Tháp trên Trung giới của chúng ta
mà tu, học thêm, rồi lại trở về trần mà hành Đạo; lọc sạch bụi tâ, tẩy sạch khí
ám ra khỏi người hàng ngày, để tâm hồn thể vía thật sạch sau mỗi ngày nhập thế;
cùng nhân loại tiến bộ tiến lên! Ấy là đời đạo song tu. Đó là cứu mình, rồi cứu
người, muôn thế hệ, khi nào loài người còn sống ở Hạ giới được, thì còn phải
đạo đời hợp nhất!
Ta gieo Pháp này cho nhân loại,
cốt ở việc ấy mà thôi!