Ngôn ngữ, bao gồm lời nói và chữ
viết. Đức ngôn-là cái đức thể hiện qua lời nói và chữ viết.
Ngôn ngữ là sản phẩm của trí
tuệ-tư duy-ý chí-nhận thức.
Nói, viết
phải có mục đích, nội dung và hình thức. Đó là ba mặt của một tác phẩm ngôn ngữ
hay văn nghệ, trong đó có cả ca nhạc.
Phải trước nhất, xác định mục
đích để làm gì? Nói, viết để vì cái gì? Mục đích là cái đích của hành vi thể
hiện ngôn ngữ: để làm gì, cho ai, tiêu chí ra sao, mang lại ý nghĩa, thông
điệp, tác dụng gì? Đây là sự quan trọng nhất, vì suy đến cùng, mọi sự đều có
cái chủ đích của nó; nói, viết mà không nhằm mục đích gì, thì thà không nói,
không viết còn hơn! Không nói, viết tầm phào, ba hoa, vô thưởng vô phạt, trừ
việc nói chuyện bình thường.
Tính mục đích của ngôn từ phải có
lương tâm, đạo đức và có giá trị của lương tâm, đạo đức. Cái này quan trọng hơn
cả. Cốt nói, viết vì mục tiêu đó. Khi ta nói, giảng, viết, phải lấy mục tiêu
phục vụ nhân dân, dùng ngôn ngữ của nhân dân, hướng tới quyền lợi chung, thì
nên nói; lấy phụng sự đạo đức làm trọng, làm đầu, với lương tâm trong sáng, đạo
đức rõ ràng, không vì mục đích xấu. Vì Phật tổ nói: Thân-khẩu-ý đều tạo nên
nghiệp, đúng như vậy. Vì văn-ngôn, vốn là từ nguồn gốc của ý chí, gốc cội của
nó là tư tưởng, tư tưởng tạo nên hình tư tưởng; tư tưởng và tinh thần tạo nên
sức mạnh to lớn, ảnh hưởng đến con người, sự vật hiện tượng. Cho nên, anh nghĩ
tốt, chắc sẽ vì cái tốt, đạo đức mà viết, nói; nói ra là khẩu quyết, khẩu ngôn,
hành ý. Trường hợp ý xấu ngôn đẹp cũng có, nhưng không sớm thì muộn cũng lộ
diện. Vì xét cho cùng, cuối cùng là hiệu quả của hành vi hành động của anh. Một
kẻ tham tàn, ích kỷ riêng mình, nói hay nói tốt, nhưng chắc chắn sẽ làm không
như nói. Y sẽ không bao giờ lấy tiêu chí phục vụ nhân dân, nhân loại, phục vụ
Cha lên làm đầu. Y sẽ biển thủ, biển lận, tham ô, nhũng nhiễu, tranh đoạt, hại
người thiện lành phía sau lời nói, lời viết.
Có thiện chí phục vụ, cống hiến
rõ ràng cho xã hội, chứ không cốt nói để chỉ khoe tài, nói nhiều cốt khoe lý,
khoe cái giỏi cái hiểu biết. Nếu có thế, thì cũng vì tinh thần cống hiến, phục
vụ. Người ta nói đó là học thật, chứ không học giả, nói hay, mà làm không hay,
làm ngược. Phục vụ ai? Phục vụ nhân dân chúng sinh, bổ sung và làm cao thêm nền
văn hóa của nhân loại, làm cho sáng hơn; làm cho chúng sinh hạnh phúc, để nhân
dân sống và sáng tạo, cải tạo đời sống tinh thần lên cao đẹp hơn. Đó là văn
ngôn có thiện chí, còn là văn cứu người, giúp đời. Trân trọng cái tốt, cái đẹp,
cái chân thật, hiền lương; biết bảo vệ cái đúng đắn, chân chính; biết đấu tranh
với cái ác, cái xấu, cái dị mọ hồ đồ, với cái xảo ngôn, tinh ranh xảo từ sáo
rỗng, hoặc bôi đen hiện thực, bôi đen nhân phẩm và các giá trị chân chính của
con người.
Mục đích cao đẹp của ngôn ngữ, là
giúp đem lại cái sáng cho đời, cho người, chứ không đem lại cái xấu, cái đen,
cái bẩn, cái ác, cái thô tục, cho dù hiện thực có là như thế, nhưng không được
phép bôi đen thêm, mà nên phản ánh nó, ở một góc nhìn chính đáng, không tô
hồng, không bôi đen, không thiên vị; càng không được tô vẽ bậy thêm. Làm như
thế, thì anh đã phủ lên hiện thực một màu đen khác từ tư tưởng của anh. Làm
sao, sau khi nói, viết, thì sự vật hiện tượng con người phải tốt lên, sáng lên,
bớt hận thù, ngu muội, vô minh đi. Cho nên, dùng ngôn ngữ, là để cải tạo cho
tốt lên, chứ không phải để cho cái xấu mọc thêm ra.
Viết, nói, không nhằm dụng ý xấu,
như bôi nhọ, vu oan, hồ đồ, gắp lửa bỏ tay người, xuyên tạc bản chất của vấn
đề; dù có đọc được ý nghĩ, thì cũng phản ánh cho đúng, và tôn trọng giá trị con
người, bản năng con người; phải xét mình, rồi đến xét người khác; đặt mình ở vị
trí và hoàn cảnh của họ, với cái thái độ điềm tĩnh, nhân hậu. Tại sao khi chúng
ta có kẻ thù xấu, chúng lại rất nhanh chóng nhận ra điểm yếu và cứ nhằm vào đó
mà soi xọc, vu váo, trong khi ở chúng đẫy rẫy thói tật, đạo đức xấu hơn ta? Vì
chúng rắp tâm hại ta, tất nhiên thông qua miệng lưỡi ngôn từ. Hãy dùng đức trị
chúng, thay vì lại dùng ngôn ngữ của chúng; bằng ngôn ngữ lời nói cho sáng, cho
đẹp; lấy ánh sáng Cao Minh phủ lên đối tượng để qui thiện chúng.
Văn từ phải thiện, lành, hướng
đạo. Người xưa nói: Văn dĩ tải Đạo là
như vậy.
NỘI DUNG:
Nội dung là cái mình muốn diễn
đạt, truyền đạt cho người khác, là thịt của tác phẩm hay chủ đề hành ngôn. Phải
sáng rõ, chặt chẽ, đầy đủ điều muốn nói; đủ hàm lượng tri thức cần truyền đạt,
phù hợp với đối tượng tiếp thu. Nội dung muốn nói gì, thì chủ đề phải rõ ràng,
bám theo chủ đề mà thể hiện. Tránh nói một đằng, nghĩ một kiểu, bí rị, ám thị,
gây khó chịu. Tất cả phải rõ ràng. Nội dung phản ánh hiện thực càng thực càng
tốt-đây là qui luật của nghệ thuật. Bám sát đời sống hiện thực để phản ánh,
trung thực, khái quát hóa, điển hình hóa lên. Tô hồng một chút không sao, nhưng
chống bôi đen, nói quá cái xấu, cái không đáng nói. Chống dung tục hóa, thô lậu
hóa. Khi nào văn nghệ sỹ hướng đến cuộc sống nhân dân, ngoài cá nhân, thì văn
chương còn có giá trị hiện thực tốt; khi nào họ chỉ hướng đến cái cá thể cá
nhân, với so lo tính toán vụn vặt, buồn vui vụn vặt mang tính cá nhân, không
hướng tới cái chung, cộng đồng, vì cộng đồng, thì văn chương lúc đó suy tàn.
Tôn trọng lời nói thẳng, thật, dù
thô mộc, hay thanh cao. Phải chịu trách nhiệm và dám chịu trách nhiệm trước lời
nói, ngôn ngữ tác phẩm của mình.
Khi nào, lúc nào, các hàng cán
bộ, lãnh đạo minh triết, biết nghe và chấp nhận lời nói, ngôn ngữ thẳng thắn,
trung thực; biết trọng người ngay thẳng hơn người nói xảo, ghét kẻ xu nịnh,
gian ngoan đơm đặt, thì lúc ấy vận Đạo, vận loài người, quốc gia còn tốt,
nguyên khí còn thịnh, nhân tài còn nảy sinh, xã hội còn đơm hoa kết trái ngọt
lành.
Và ngược lại, khi nào lãnh đạo,
cán bộ, thích nghe lời xàm tấu, nói sau lưng, đơm đặt, nghe một tai, xa rời
hiện thực và quần chúng, quan liêu, ỷ lại cấp dưới, chỉ nghe báo cáo mà không
suy xét, kiểm tra thực tế; hoặc không đi so sánh bổ sung điều nghiên cho
nghiêm; khi dân chúng thích những kẻ xấu lươn lẹo, lời nói bóng bẩy, hào nhoáng
và trổ mã vì danh tài lợi lộc cá nhân, thì lúc ấy báo hiệu sự suy vi.
Kẻ báo cáo, tấu báo trung thực,
có kiểm tra, có bằng chứng, dẫn chứng, có kết quả thẩm định nghiêm, là kẻ có
lòng vì dân, lòng thiện, mẫn cán. Kẻ nào chỉ dựa vào bằng chứng, dẫn chứng bề
ngoài, nông nổi, huyễn ảo, ngoa dụ, tầm phào, tin đồn hư thực, không nghe chúng
nhân, xa rời hiện thực, thích thuyết xuông, ưa đọc báo cáo, sợ tiếp xúc với
quần chúng, lời nói bóng mỡ, chỉ cốt nước váng trên mặt…thì tất là khó trung
thực, khó thực, chớ dùng, chớ nghe. Đàn ông thích tán tỉnh đường mật, câu chữ
mây mưa, thì phụ nữ cũng nên cảnh giác.
Ta ghét nhất là nói láo, nói xiên
xẹo và hồ đồ. Số kiếp Ta bầm dập, để nói những lời tâm huyết này với quí vị.
HÌNH THỨC:
Hình thức ngôn ngữ phải sáng,
đẹp-văn chương phải rõ, gọn, sạch, nói ít, viết ít hiểu nhiều. Văn chương phải
giản dị, thanh cao, nội dung càng gần với cách cảm, cách nghĩ của nhân dân càng
tốt. Lời nói, câu chữ thật thà, là thanh cao nhất, đẹp đẽ nhất. Để cho cả loài
người đọc được, hiểu được, thì ngôn từ phải rõ ràng, trong sáng, nội dung phải
rõ. Tiếng Việt của dân tộc Việt Nam-là ngôn ngữ giàu hình ảnh, thuộc loại ngôn
ngữ hay và đẹp, nhưng lại dễ học, dễ cảm, ngữ pháp đơn giản nhất thế giới. Sau
này, nhân dân thế giới nên học tiếng Việt, để tiếp thu Thánh Đức cho phù hợp.
Viết, nói phải có gan, dám nói,
dám viết những gì mình thấy đúng, hoặc thấy mình chưa đúng, dám nhìn nhận
khuyết điểm của mình, của người; biết phê bình mình và phê bình người. Không có
gan tự nhận lỗi, thì cũng đừng có gan phê bình người khác; dám nhìn vào sự
thật, dù sự thật có đắng cay bao nhiêu, vấn đề là có sưa chữa hay không. Không
bảo thủ. Vì lịch sử phát triển, tiến hóa, nhưng là tiến hóa đến cái chung nhất,
hợp nhất, chứ không có qui luật nào cho sự phân hóa sau cùng, phân, rồi lại hợp
mà thôi; tiến bộ là chính, thụt lùi, phản tiến bộ, chỉ là tạm thời, vì qui luật
Chân Thiện Mỹ rất rõ rồi, cho nên, không sợ cái xấu, không sợ cái ác, không sợ
chết, vì không ai chết, không sợ khổ, vì không ai khổ khi xác định tĩnh tại và
an bình cho mình; không sợ đấu tranh, vì đấu tranh sẽ sinh ra tiến bộ, phát
triển-nhưng không được lạm dụng trở thành bạo lực phản kháng quá luật, quá cái
cho phép; đấu tranh với thói xấu trước của mình, rồi đến người. Giống như mình
đi xâm lược, nhưng cứ dạy người khác về nhân quyền thì không hợp luật, mình
không ăn chay, mà cứ nói yêu thương chúng sinh, là không hợp luật. Mình kêu đau
đời, nhưng dửng dưng nhìn cái đau của người nghèo, khổ, hư dốt, cái đau của
những con vật bị cắt tiết-nỗi đau như khi mình đau thôi-là không hợp luật.
Bao nhiêu triết ngôn, bao nhiêu
kinh sách, bao nhiêu mỹ từ, mà đọc, nói, viết, nhưng không làm theo, thì cũng
vô nghĩa, còn thua một việc làm thực tế. Chớ triết ngôn, trích kinh điển, kiểu
làm bóng cho bài viết cốt khoe kiểu lý ngôn, nhưng rồi sa vào kinh viện, giáo
điều, hơi một tý lại lấy điển tích ra, học gượng, ốp vào, gán vào, thì sau sẽ
có họa diệt vong. Nói, viết, mà không mới hơn thì đừng nói là nghiên cứu, mà
chỉ là học, tham khảo. Nghiên cứu đề tài, khoa học…mà cốt lấy bằng cấp, trưng
dụng chữ nghĩa kiểu học vẹt, chọn vẹt, tạo ra tiến sỹ giấy…thì phải bỏ, nếu
không phá hỏng cả nhiều thế hệ, mất hết nguyên khí, nhân tài. Sau này thi nhân
tài, cốt thi lấy đạo đức và học thuật, đạo đức thì lấy hiền lương, hiền lương
cần nhất là thương dân, không thương dân, chỉ là láo khoét, thương dân thì có
tất cả; học thuật thì lấy đề tài khả thi, tính khả thi, thì lấy cái mục đích
phụng sự nhân dân, có tính thực tế, thực dụng làm đầu. Dùng người tài, chớ
trọng bằng cấp, học thuật làm đầu, mà trọng đạo đức, cái tâm của họ với đời,
với việc và trình độ khả năng thực tế của họ; chớ trọng lời lẽ, vì lời lẽ, câu
ngôn, ta chỉ cho là ảo, vì lời nói như gió, bay đi, lưỡi không có xương.
Miêu tả không dung tục, kể cả
viết về tình dục, cũng không được miêu tả thành việc tục tĩu bình thường, kích
động dục năng, vì dục năng và hành vi tính dục có sẵn trong người rồi, kích
thêm làm gì? Viết về tình yêu, thì viết cho trong sáng, thanh cao, vì tình yêu
nam nữ là biểu hiện cao nhất của vẻ đẹp tinh thần, của tạo hóa, phải thi vị nó,
cho nó đẹp, chứ không chỉ biểu nhiện ở mặt tình dục, vì tình dục vốn chỉ biểu
hiện bản năng giới tính, chứ không phải là tình yêu, nó là nền tảng của tình
yêu nam nữ, nhưng không quyết định tình yêu. Tình yêu phải từ niềm tin, lẽ
sống, từ sự hòa hợp và hòa nhập của hai tâm hồn.
Văn chương hay, thì câu chuyện,
cốt chuyện phải hay và câu từ hay, đem lại hạnh phúc, tình yêu, sự cao thượng,
đẹp đẽ cho người đọc, cho họ niềm tin, sức sống, hướng thiện, phá tan cái ác
trong lòng họ, cái ác ngoài đời…thì đó là văn đẹp, có thẩm mỹ. Tránh lối văn
cầu kỳ, rối rắm, rỗng tuếch, thương vay khóc giả, thơ giả, văn giả, cốt mua vui
nhếu nháo, không vì mục đích tốt đẹp; kể cả chuyện vui, chuyện phiếm, để giải
trí, thì cũng cần sáng, sạch. Nội dung hay, hình thức thô vụng cũng chả sao.
Nội dung xấu, nhưng hình thức thể hiện đẹp đẽ, văn hoa, đó là thói thường, đáng
sợ. Cái mục đích là giúp đời sáng, thì ắt nội dung sáng và hình thức cũng sáng
theo thôi.
Văn chương, ca nhạc, văn học nghệ
thuật đặc biệt tôn trọng và phát huy tính dân gian, càng gần với dân gian càng
tốt. Nhạc chống ủy mị, buồn bã, thoái chí, làm cho con người chán nản, sầu bi.
Việc tác dụng của tư tưởng đến sức khỏe, tinh thần, linh hồn thế nào thì các vị
đã biết rồi. Nhạc đám ma, cũng không nên sầu bi quá, mà phải làm cho linh hồn,
vì linh hồn là chính, để cho họ thấy tin tưởng, thanh, sáng láng ra chân lý và
cuộc sống mới.
TÍNH BIỆN CHỨNG: Xuất phát từ Ba qui luật lớn-Đạo Trời; là tính thống nhất, vận động, nhân quả, phản phục, phản lực, tâm linh-của
mọi sự vật hiện tượng. Khi xem xét phán ánh, viết về cụ thể một sự vật hiện
tượng, hay con người, chúng ta phải xem tính hợp lý thống nhất của nó, trong
mối quan hệ xung quanh, trong mối quan hệ chung, tính chỉnh thể chung; cái gì
cũng có tính hợp lý tồn tại của nó tại thời điểm đó, tại sao nó tồn tại được,
tồn tại bao lâu, trong phạm vi thống nhất nào, mặt đối lập của nó là gì; sự vận
động theo hai mặt giả định, vận động trước (lịch sử-cũ), vận động tại chỗ (hiện
tại-tĩnh), vận động sau (tương lai-động-xu hướng) của nó, nhân quả-nguyên nhân
(tại sao), hậu quả, kết quả, nó tác động, tạo ra lực gì (như thế nào), phản
phục và phản lực của nó ra sao( đối lập), mức độ tồn tại năng lượng-hay chính
là sức sống của nó như thế nào, bao lâu (dự báo-tâm linh) trong không gian hữu
hình và vô hình. Muốn đánh giá được các mặt ấy, thì ta phải tách ra, đứng xa và
trên nó-để đánh giá, có nghĩa ta phải dùng con mắt khách quan của ta, rồi xét
trong mối quan hệ giữa ta, với sự vật, hiện tượng ấy-tức là trước, trong và sau
khi đánh giá, ta lại phải giải quyết mối quan hệ chủ quan của ta-với nó-khách
quan. Bởi vì: Khi ta nhận xét, hay nhìn, hay tác động, hay phản ánh, thì đã tự
nhiên xác lập một mối quan hệ chủ thể-với khách thể là mình với đối tượng được
phản ánh, được thể hiện, được xem xét. Có như thế, mới không nhìn lệch lạc, một
chiều, sai trái, phản ánh đúng như nó có, đúng bản chất và hình thức biểu hiện
của nó, thì không bao giờ sai. Dù đó là con người, có hậu kiếp tiền kiếp nhân
quả, bản chất hành vi công quả, tài đức..đến mọi sự vật, hiện tượng khác.
TINH THẦN BIỆN CHỨNG: Trong việc phản ánh thể hiện
mọi vấn đề, phải có đầy đủ tinh thần tự giác để thể hiện và phản ánh thuộc tính
của Ba qui luật lớn-đó là tinh thần
biện chứng của chúng ta: Mọi sự vật vận động, biến đổi, sinh ra và mất đi,
trong mối quan hệ và tác động tổng hòa của Ba qui luật lớn-tức Đạo Trời. Trong
mọi sự vật hiện tượng, khi không phản ánh, hay đánh giá được Tinh Thần Biện Chứng
trong nó, thì còn sai hoặc chưa đầy đủ. Tinh thần biện chứng khác tính biện
chứng.
ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG: Đấu tranh với kẻ đối địch, cần
nhất là bình tĩnh, xét xem họ nói gì, nói như thể nào, nội dung, biểu hiện, bản
chất của hành vi đó; họ đấu ta, chống ta vì lý do gì, trình độ thể hiện, cách
thức thể hiện, từ đó có phương cách chống lại. Tùy từng đối tượng, mà có cách
tác động, giáo hóa khác nhau; lấy giáo dục, thuyết phục, để qui thiện trước,
rồi mới sử dụng biện pháp khác. Cần tập trung vào mức năng lượng và trình độ
tiến hóa linh hồn, để giáo dục tâm lý, biết tạo ra khẩu nghiệp, thân nghiệp cho
họ để họ giác ngộ-nếu không cho họ thấy hậu quả, tất khó giáo dục; lấy giáo dục
linh hồn-cận tâm lý làm chính-tức xoáy vào tâm lý ý thức vô hình. Dùng ngôn ngữ,
văn chương để làm vũ khí sắc bén; dùng biện pháp dư luận và tạo ra dư luận tập
thể để giáo dục; phải biết phát huy sức mạnh đồng thanh tương ứng và sử dụng
mức năng lượng để tác động vào năng lượng trên Thiên đình và Hạ thế. Chúng ta
nên nhớ, thời mới, Cha Mẹ và các thánh ưu tiên và rất quan tâm hỗ trợ cho chúng
ta rất nhiều việc, bóng Ta trên đó, tất nhiên hỗ trợ mạnh hơn, theo quyền pháp
của mình; Thiên bảo trượng được Ta nắm giữ, sẽ khó có kẻ ác chống lại chúng ta,
mà không bị báo ứng, nếu không qui thiện.
Mọi việc cần nhất là công tâm,
công chính, công bình, chính trực, trung thực-ấy là bảo khí muôn đời của thần
dân Thiên Đạo.
Như thế-gọi là có ĐỨC NGÔN. Cùng với Tu đức, luyện thân, độ nhân, lập thế của người Thiên Đạo. Đức ngôn
thuộc về tu đức.
Đức ngôn phải thể hiện được tư
tưởng Đại đồng-Đại Thiện-Đại Mỹ-Đại Linh, phản ánh được và mà nảy sinh được
Chân-Thiện-Mỹ, thì chắc chắn có giá trị. Đó là đức ngôn.
* * *
Có vô khối nước thời mạt thế, kẻ
nói là bình đẳng, bác ái, tự do, nhưng
họ coi dân nghèo, dân tộc khác như trâu như chó; đi đánh chiếm xâm lược chà đạp
lên danh dự, nhân phẩm của người khác, của dân tộc khác, mà lại nói là vì nhân
quyền, bảo vệ hòa bình; chế tạo bom đạn, buôn bán bom đạn, giết hại con người
thảm khốc, lại nói là nói là nhân đạo, theo ý Chúa! Chúa thánh nào chứng cho họ
điều ấy! Bắt tay hữu hảo, nhưng xọc dao vào lưng nhau, cướp đất cướp biển, cướp
công, dồn đẩy rác rưởi, kể cả rác tâm linh, phá long mạch nước người, ngoài thì
thơn thớt nói cười, còn trong thì hiểm độc có truyền thống, mà nói là theo ý
trời-trung tâm của thế giới, tự coi mình là văn minh nhất, trung tâm nhất, thì
Trời nào chứng cho họ! Đó là gian nhất thế gian.
Nói cho đúng, làm cho đúng cái
việc mình nói, dù sai, còn hơn nói láo, làm giả! Họ không có chúa thánh nào,
ngoài chúa thánh tiền! Loại chúa tiền thì khủng khiếp lắm-hủy diệt cả nhân
loại!
Ta có khi đã phải trừng trị thẳng
tay lũ vong ma, diệt vài tên, khi giáo hóa không được, vì chúng quá hỗn láo, vô
minh và tàn ác, không thể giáo hóa được nữa. Sau này cũng thế. Dù ta có về
trên, thì vẫn hành xử những tên chống Thiên Đạo và nhân loại như vậy. Sau này,
Thiên Đạo công khai xét tội đồ, rồi trừng trị cho toàn dân biết: Tên kẻ đó,
sống tại thế có tội gì, xử ra sao; kể cả diệt vĩnh viễn, để làm gương cho muôn
năm sau!
Đừng quên gương những tên tội đồ
chống Cha Ta: Ju-đa phản Chúa xong, ngã vỡ bụng mà chết, rồi bị đọa vào địa
ngục, nhà thơ Von-te nổi tiếng, cũng nổi tiếng chống Thiên Chúa, cũng bị đọa vào
địa ngục, toàn quyền Pháp tại Đông Dương là Pierre Marie Antoine Pasquier, bị nổ máy bay chết, khi chống lại
việc công nhận đạo Cao Đài, tất nhiên cũng bị đọa vào địa ngục.
Luật mới sắp tới, một là giáo hóa cho siêu,
hai là đọa Thiên ngục nóng khủng khiếp và ba là bị diệt linh hồn. Diệt-tức phá
hủy linh hồn, cho nó thành hư vô khí-đấy là sự trừng phạt nhất của Thiên đình,
thông qua chúng ta, hành đạo, thay Trời hành Đạo.
Cha đã từng dạy đạo Cao Đài: “ Các
con hiền mà các con dữ, các con yếu mà các con mạnh, các con nhỏ nhoi mà là
quyền thế, các con nhịn nhục mà là hành phạt, cử chỉ các con khá tập sao cho
nghịch với cử chỉ thế tình thì là gần ngôi Tiên Phật đó”.
Chúng ta không từ bi như đạo Phật
được. Từ bi của chúng ta, là cứu khổ cho nhân loại cần lao, một cách tổng thế,
chứ không hỉ xả vô điều kiện cho chúng nó, rồi tự nó gánh nghiệp. Nó không
gánh nghiệp ngay, mà tiếp tục làm hại người sau khi mãn, rồi mãi về sau, xa
đọa vào nước quỉ, thì đến bao giờ hết nghiệp ác cho chúng nó?
Cứu người ngay oan, người bệnh
tật vô điều kiện, cứu kẻ ác, thì phải cho họ hiểu ra chính nghĩa; lấy chính nghĩa
mà cứu ác. Bảo vệ cái thiện, cái chính đáng, cái trong sáng, thì không sợ gì.
Phép xử tội hồn: Hàng năm, Tòa Ba ghi tội nhân
tại trần, sau đó tấu lên Thiên đình và Ta, rồi được lệnh xét xử công khai chúng
nó. Khi xét xử, lập Tòa án Linh tại trần, các thiên thần thiên binh tiên tướng
dong tội hồn xuống, cho áp vong nhập hồn, rồi luận tội, sau đó tùy hình phạt,
tội, mà xử lý, dẫn đi thụ án. Người trần dấu tội, không xử được, che tội cho
nhau được, nhưng chúng ta xử được rất tốt những kẻ ấy! Kẻ nào dưới hạ thế,
chống lại việc đó, lại xử tiếp chúng nó khi chúng nó mãn! Cho đến khi tuân luật
thì thôi.
Tội nhân từ trước đến nay-đến khi
lập Thiên Đạo vào Mậu Tý thời mạt, thì an xá tất, các vong nhân cho siêu hết,
dạy cho siêu, trừ những tên ác quá mới diệt, còn từ nay trở đi, kẻ nào gây tội
ác, tất bị xử; trên kia thì có sổ ghi, dưới này các vị cũng ghi cho Ta, nhất là
những kẻ chống Thiên Đạo.