NÓI VỀ
CÁI DANH, CÁI NGÃ
Khổng Tử nói: Danh chính ngôn thuận. Nay Ta
nói: Phải thể hiện Danh Chính của mình.
Đạo vốn không có danh, Thượng đế ở trong bản
thể và linh hồn muôn vật nên không có danh, nhưng để thực thi Đạo-tức Định luật
Vũ trụ, nên Thượng đế phải có Nhân tính và Danh tính-là cái ngôi vị, vị Tôi của
mình, cái tên gọi là do Người Đời đặt cho Thượng đế. Làm gì cũng phải có
danh-tức cái tên và cái bản ngã của mình. Cha là Đại Ngã, chúng ta là Tiểu Ngã.
Ai ai và muôn vật đều có cái Ngã của mình-tức cái Tôi cá thể. Nếu mất cái Tôi đấy,
thì không còn là anh nữa-cho dù anh siêu thoát đến bực nào-thì anh vẫn còn đó
Một Linh Hồn Thường Tại-với cái bản tính không lẫn được của riêng anh! Bản tính
là thế nào? Là toàn thể cái cấp tổ chức thông tin của Linh hồn anh, cái đó
không ai cho anh, mà anh tự học, tự có-tất nhiên ban đầu, thì Cha có nạp vào
cho nó một bản tính Thường Tại ban đầu, cho nó một cấp tổ chức đặc trưng.
Chúng ta hình dung thế này, các sao Bắc Đẩu
có những thuộc tính riêng của các Ngài. Ta khác, các vị khác.
-Nhưng chúng ta hiểu là: Cái danh, cái tôi cá
nhân là Thường Tại-nhưng ở kẻ phàm tục, cái đó biến thành cái tôi cá nhân vị
kỷ, bo bo cho riêng mình, cái Tôi đó lấn át, chiếm dụng, chiếm cái Tôi của kẻ
khác; chủ nghĩa cá nhân biến con người thành kẻ thù, thành đối tượng để chiếm
dụng, mưu lợi nhau. Cái Tôi to quá, thành ra sân hận si mê, đấu đá, tranh dành,
tham lam cố vị…Làm quan cốt thỏa cái Huyễn danh, làm giàu cốt thỏa cái Lộc
danh, căm thù cốt thỏa cái Hận danh, hãm nhau bởi cái Hèn danh…
Cho nên, người giác ngộ phải quyết bỏ cái Lậu
danh đó! Mà thay vào đó bằng Danh Chính.
Danh
Chính
là gì: Là cái danh chính thực của mình, là mình. Ai cũng có cái tên riêng. Danh
đó là danh Thường Tại chân chính, nó phải biểu hiện được Thiên tính-Thiên Lương
gốc, hay Thượng đế tính. Trọng bản
thân mình, để thương đồng loại; biết mình là ai, biết người là ai, chứ không vô
minh, hòa đồng vô nguyên tắc, lu mờ cá tính cá thể; không thể có loại tập thể
ngu muội chạy theo một thứ huyễn tưởng, bảo gì nghe lấy! Mà cái tập thể đó là
phải danh chính mình lên, làm chủ mình, làm chủ xã hội. Cá nhân cũng thế, vươn
lên tầm cao hiểu biết giác ngộ, rồi làm chủ bản thân, sau đó xây dựng cuộc đời
chính thực của mình, theo con đường chân chính hợp Định lý Vũ trụ. Cho nên, cái
Tôi, cái danh của chúng ta là cái Tôi Minh Triết, cái Danh Linh ngã! Bỏ cái
Phàm ngã, tiến lên Linh Ngã! Bỏ cái phàm tục, tiến lên Linh tục! Phải tục chứ,
mất sao được tục, nhưng cái tục đó là cái cần, biết chế ngự và dùng nó đúng
lúc, đúng chỗ, được việc, tiến hóa, thì đó là cái tục linh!
Xưng danh thì mới định phận. Nên nhớ, vĩnh
viễn con người luôn thường có các số phận khác nhau, bản tính khác nhau! Nếu
như cả trái đất này mà con người đều giống nhau đến cả bản tính thì…rất kinh!
Nếu thế thì không còn là Thượng đế nữa! Ta chỉ cần các vị cùng nhìn về Một
Hướng là được, cùng biết Đoàn kết cùng một Lực là xong!
Cho nên, xét rộng ra, sau này cấm cái việc
ngu xuẩn là bắt tất cả mọi người sống giống nhau, ăn như nhau, làm như nhau,
biến con người thành cái máy, như thế không lâu thì loài người biến thành trại
tỵ nạn, rồi thành súc vật hết!
Ta chỉ đường cho các vị, rồi các vị tự đục
đẽo, chế tác phương tiện mà đi, trên con đường Thánh Đức vô cùng lâu dài! Ai
giỏi thì đi mau, ai kém thì đi chậm, không vì cái vội mà mạo báng nhau, rồi kỳ
thị nhau. Nói là Đại đồng, ấy là Qui Về Một Gốc Thống Nhất, chứ không cấm có dị
biệt-nhưng không là thứ dị biệt càn rỡ, ngu xuẩn, chống đối, vô đạo mà là cái
dị biệt cao quý-nó là thế nào? Nó là sắc da, màu áo, màu dân tộc, là văn hóa và
bản sắc vùng miền, là hương của thực phẩm, của cây cỏ hoa lá muông thú đa dạng,
là sự tinh diệu của tiến hóa linh hồn, của Linh Hồn Thường Tại của chúng sinh…
Đó tạo lên sự Minh Triết, sinh động, sống động của Thượng đế và của Thánh Đức.
Trong mỗi một bản thể, có một Thượng đế riêng!
-Cho nên, Ta nói rằng, không những không che
lấp cái Tôi, cái Danh của mình, mà phải khẳng định, xưng cái Tôi, cái Danh ấy
lên một cách cao đẹp. Nếu cái danh, cái tôi ấy sáng, thì đời sáng, người sáng,
Nhân loại sáng, thì phải biết nhân rộng cái tôi ấy cho mọi người biết. Nên sau
này, các nhân tài, các cá thể có công lao, các nhà khoa học, tấm gương tốt-thì
chúng ta phải quảng bá họ, nêu cao họ, tự quảng mình lên!
Nói về danh xưng. Trên kia, ngay cả bực thần
tiên, còn gọi thầy của mình và xưng con-ví như Ngọc Phật xưng con với Di Lặc.
Xét cho cùng, Ta vốn là Ngôi của Thượng đế tại trần, các vị tất phải xưng con
hết. Nhưng Ta nguyện làm con Cha Trời, gọi Cha, Mẹ Trời, thì phải là anh cả của
các vị.
Ta là Ngôi Hai tại thế, tức là ngôi vị Thứ
Hai sau Vua Cha tại Thế, hay nói cho đúng là Thượng đế tại trần gian, thay
Thượng đế lập Luật, hành Đạo, là “Ngọc Hoàng Thượng đế Tĩnh Tiên phổ độ”-thì Ta
phải xưng Danh vị và cái Ngã của Ta. Là “Ta”.
Xã hội nào làm cho cái Huyễn danh, Lậu danh
phát triển cao nhất-đó chính là xã hội Tư bản. Chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, tận
cùng là tội ác cá nhân phát triển vượt bực, đi với nó là sự sử dụng vật dục
nhiều và khuyến khích sử dụng vật dục, dụng bạo lực cá nhân và xã hội. Cho nên,
về hình thức tổ chức xã hội, chúng ta kiên quyết loại bỏ CNTB.
Đạo Phật chủ trương loại bỏ huyễn ngã, ngã
mạn, không có cái bản ngã, không có đại ngã Vũ trụ, để hòa vào Vũ trụ-nhập Niết
Bàn. Bây giờ chúng ta nói là có Linh Hồn Tiểu Ngã, có Linh Hồn Đại Ngã. Muốn
mất cái Huyễn Ngã, thì phải có Vô ngã, tức loại cái Tục Ngã đi mà hòa vào Đại
Ngã. Vô Ngã cũng là Đại Ngã!
Thế có Vô Ngã rồi, có Ngã mạn nữa không? Ngã
mạn là cái tôi quá đáng của mình. Thượng đế là tất cả, nên không ngã mạn, nhưng
trong từng việc cụ thể, Thượng đế rất ngã mạn. Nên Ta cũng thế! Ngã mà không
ngã, mới là Minh Triết Ngã! Ta dùng cái Ngã lực của bản thân, để thúc đẩy tiến
hóa, để xóa cái Tục Ngã của chúng sinh, là Ta đã rất Ngã mạn! Nhưng vì Ta hòa
vào chúng sinh, là tất cả, nên Ta Vô Ngã. Khi Ta xưng danh, là Ta rất Ngã, để khẳng
định cái Tôi của Ta, cái Ta của Tôi. Không thế thì mọi việc không xong. Nhưng
Ta sẽ tỏa quyền năng, sứ mệnh của Ta cho tất cả chúng sinh
, đó là sức sống và bản ngã của Ta cho tất cả
chúng sinh thể hiện cái Tính Tôi, cái Ngã của chúng sinh, các đệ tử, cho nên Ta
mất cái Ngã của Ta, hay nói cho đúng, Ta đã biến thành chúng sinh.
Cho nên Ta mới nói: Khi tất cả mọi người trên trái đất này đều vỗ ngực xưng danh: Ta là
Thượng đế, thì thành Thánh Đức! Khi tất cả mọi công xã đều Lập Luật, hành
Đạo, thì trái đất này biến thành Thiên Đường!
Sự tự trị, tự quản của mọi người, mọi công
xã, Khu Tự trị…sẽ là cái Ngã của Ta cho các vị, thành chúng sinh, hóa ra thực
sự thì Ta có tất cả-nhưng cũng không có gì. Vì Đạo vốn không của riêng ai,
Thánh Đức là của tất cả vậy!
Tóm
lại:
Tu cho đến thấy cái Bản lai diện mục chính mình là cái Ngã, biết Ngã. Hành cho
đến cái Ngã của mình hóa thành Thượng đế Tính-đó là Vô ngã, Vô danh.
Phải có Ngã ( cái Tôi), Danh ( Tên-chính
mình); biến nó thành Đại Ngã (Vô ngã), Đại Danh ( Đại chúng). Đó là Danh-Phi
Thường Danh, Ngã-Phi Thường Ngã!
NÓI VỀ SỰ CHẤP
Không biết thì nói là không biết, biết thì
nói là biết, vậy gọi là biết. Biết mà không nói, thì cũng gọi là biết. Không
biết mà nói thì cũng là biết. Không tranh luận ghanh nhau, chỉ có dùng thuyết
lý để chứng minh quan điểm. Không gì hay hơn là dùng thủ thắng trong tranh
luận, rồi dùng quả vị, việc làm chứng minh. Khen chê, nhận xét hay dở, đánh giá
đúng sai là có ích. Vô chấp là không chấp vào các cảnh sắc hình tướng tính
trạng số nghiệp khi luyện đạo; chứ trong hành đạo là phải chấp. Thượng đế vô
chấp nhưng đại chấp, bằng chính Luật Trời. Ta vô chấp mà chấp hết, bằng Luật
Đạo. Các vị hành xử đời thường, muốn vô chấp cá nhân, thì phải chấp bằng nghi
lễ, hành Pháp đạo đời cân phân; xã hội, gia đình phải có luật, ranh giới, không
có không xong. Không luật, không nghi lễ, bất thành đạo. Mọi hình thức tổ chức,
đều có qui định, hành qui định đó, mới là tổ chức. Nên, muốn có vô chấp, để cho
không còn chấp ngã cá nhân với nhau gây nghiệp, thì phải xây dựng nề thói cho
nghiêm, rồi cứ thế thể theo nề thói ấy mà hành, thì đúng với lý trời, lý xã
hội, cá nhân không tạo nghiệp xấu.
Nói về hình tướng, tất cả là giả ảo mà cũng
là thật ảo, chứ không chấp bề ngoài mới là người hiểu đạo. Kỳ này Ta xuống,
mượn cái số hẩm chẳng ra gì, để các con phá chấp về đạo. Học trò có đứa không
thấy Ta oai, đến nhà thấy Ta hót phân cho chó, đi chân đất, mặc quần đùi, nó
coi khinh; nhưng nó chưa thấy Ta đi về Thiên giới, chủ quản cả cấp Thiên hà…thì
nó chưa hiểu. Lại có kẻ thấy Ta làm đạo sư có vợ, thì nó không thích, nhưng nó
có hồn vía đi đến Thiên hà, nó thấy Vũ trụ được tạo từ hai phần đối ngẫu, có
hai dây Đạo trường âm dương, thì nó sẽ hiểu. Rồi nó thấy Ta hiền quá mà bắt
nạt, coi khinh, nó đâu có biết Ta búng một cái, thì số nó cũng tan. Rồi lại có
cảnh, thấy Ta ăn mặn, nó cho là tà đạo,
nhiễm như mọi người, nó đâu có biết, mỗi ngày Ta luyện công rồi phá trọc khí
mấy tiếng đồng hồ, trong khi ăn chay thì không thấy được khí cảm. Lại có kẻ coi
khinh thần thông của Ta, chúng giỏi soi thấy rõ hơn mấy chuyện bói toán, họ đâu
có biết, đến học trò Ta, có lúc búng tay một cái, mưa đã tan, chưa nói đến
chuyện đi tạo lập Thiên hà, Vũ trụ, thì sao chúng tin, thậm chí tạo ra linh hồn
chúng nó. Học trò của Ta sau này, ngồi ăn cơm mà phá bão, rồi đi cắt cỏ, khiêm
tốn vô cùng, đó mới hiểu lời Ta nói. Nhiều đứa kiêu ngạo, chưa chi chưa hiểu,
đã vội phán xét Ta, nhưng nó
chưa làm nổi việc gì, nếu nó làm được như Ta,
chắc nó hết thói đố kỵ, nhưng nó sẽ kiêu ngạo đến đâu. Kiêu ngạo đến mức nào?
Đến mức chống đối, phá báng. Đến lúc nó đứng trước án tòa Thiên, linh hồn nó sẽ
hiểu. Chưa nói chi đến trí tuệ của chúng, đọc luận một tác phẩm văn học cũng
chưa thông, nói gì đến triết luận.
Rồi nó bảo Ta không chính, không nghiêm, nếu
xuất hồn thấy Ta ngồi phán cho các các giáo chủ xưa, đến cả anh hùng dân tộc
của các con, mà Ta thì trông như đứa nông dân ở trần, thì mới hiểu thế nào là
đạo chính.
NÓI VỀ SỰ THAM
Cái tham cá nhân là cái tham thường tình,
không có chi mà lạ, bởi bản tính cố hữu của cá nhân đã có tính sở hữu và làm
chủ bản thể của nó. Muốn làm chủ bản thể của nó, nó phải chiếm dụng xung quanh,
kể từ khí thở trở đi!
Nhưng chế định cái tham cá nhân bằng Luật là
chấp nó, tức biến cái tham cá nhân thành cái tham tập thể. Cá nhân bị ngụp bơi
trong đó. Tham tập thể của chúng ta là khao khát cống hiến cho xã hội để xã hội
tiến hóa nhanh, cao hơn; mang lại nhiều lợi ích tốt đẹp chân chính cho con
người, trong đó có mình và gia đình mình. Tham công bình: Công bằng và bình
đẳng, nên thấy sự bất công, bất bình đẳng, không dân chủ, thì phải đấu tranh
bằng luật.
Tham giải thoát cũng không tốt, phải tuần tự
tiến hóa, khi cơ địa và số nghiệp sang trang, thì anh mới là giá trị khác được.
Tham giải thoát để rồi lánh thoát đời, thì xã hội ai lo, ai xây Thiên đường
cho. Rồi các con xem, trải nghiệm trần đời rồi tu Huyền Pháp, sau này các con
linh hồn sẽ TO LỚN HƠN tất cả những kẻ ham lánh đời. Ta đã quyêt như thế, thì
các con chớ sợ cái đời.
Tham ăn, có lúc béo, bệnh, không tu cao được,
tất có lúc học bài kém. Ăn ngon thì ai chả muốn, chả tham; nhắc rằng: Thời
Thánh Đức không phải là thời diệt khổ, mà là thời no ấm, đẩy đủ và là thời ăn
ngon, mặc ấm-chứ không phải là diệt các thứ đó và diệt ham muốn. Nhưng, có
nghĩa phải ăn đúng cách. Dần rồi khoa học chế tạo ra thức ăn ngon mà không còn
giết vật, đủ đầy dinh dưỡng. Nuôi trẻ con mà nó tham ăn mau lớn thì mừng quá.
Không có trẻ con thì làm sao có người lớn mà tu luyện.
Bệnh tham quyền lực cũng khó chữa, chữa bệnh
này thì diệt cái oai của nó đi là cách tốt nhất. Ta đã tính kỹ trong Luật kinh,
Giáo kinh, cứ kẻ thích oai, hạch sách, khoe mã, tranh đấu, ngã mạn cao, coi
thường tập thể và người khác, thị quyền, thị oai…phải phế bỏ ngay.
Tham dục đến gây hậu quả nghiêm trọng như
hiếp dâm, cướp vợ người khác, loạn luân, tổ chức mua bán dâm, buôn bán phụ
nữ…..tất phải bị diệt dục vĩnh viễn ( thiến, tiêm thuốc diệt dục), để diệt mầm
cá thể về sau.
Tham dục cũng là cái tham của Thượng đế mà
thôi, các con của Ngài thì thích như thế, cũng là Ngài thích! Đến khi Ta cũng
thích, nếu Ta không thích dục, thì chẳng phải là Ta trong xác thể này. Nhưng
rồi cũng đến lúc Ta tiết chế cùng các con, khi đã sợ nghiệp.
NÓI VỀ SỰ CẦN
Tựu chung các thứ cần cho thân thể bản thể
vật lý là cần: Ăn, mặc, ngủ, tình dục, công danh, lợi ích…
Cần mới sinh tham. Không cần không tham. Vậy
trước hết muốn chế phục thân tâm, làm chủ nó thì phải chế phục sự cần. Chế phục
bằng luật là căn bản quan trọng. Chế phục bằng tu luyện là hay nhất, vì cuối
cùng là anh phải làm chủ anh, để đắc đạo. Ăn nhiều, ngủ nhiều, sinh hoạt tình
dục nhiều…chưa phải là xấu, nếu cơ thể đáp ứng và cần thấy chưa đủ. Miễn là
không gây nghiệp. Điều quan trọng là chế ngự được nó, tức là hoàn toàn chế phục
nó cho nó vào một cơ chế tự thân điều độ, thích khởi thì khởi, thích diệt, chế
là diệt, chế được. Tức làm chủ nó hoàn toàn. Chỉ có làm chủ nó, thì mới không
phát sinh các nghiệp liên quan đến nó. Nếu bạn là người khát dục, thì đâu có
tạo vía xấu, nhưng vía đó đeo bám linh hồn bạn, để bạn sau đó không thoát lên
cao được. Vậy thì phải làm cho nó cháy cái đó bằng hai cách: Diệt nó-tức đưa nó
về điểm không, ngược lại với sự khởi lên, hai là cho nó thỏa mãn, đến cao nhất,
rồi dẫn dắt nó, để chế phục, rồi có thể diệt nó cũng có thể về điểm không. Tức
là theo cả hai chiều cũng về được Không. Các việc khác tương tự. Đó là cách hay
nhất, còn nếu nhịn nó, sẽ gây nghiệp; không chế, diệt được, thì tốt nhất là xả
nó, tức cho nó mãn. Sau khi nó mãn, nó sẽ là cái khác, hoặc là chuyển hóa, hoặc
là hồi đầu.
Quan điểm của chúng ta là có lý luận khoa học
về vía, hồn, đốt vía, diệt hình tư tưởng, xuất hồn gom và diệt nghiệp, xoay vần
hóa biến các năng lượng và nghiệp xấu…đến mức thượng thừa, thì xoay cả cung sao
và cải hóa cả tương lai…nên các nguyên lý tu luyện không có gì bí hiểm hay khó
khăn, phức tạp, cao diệu bí hiểm, mà rất thực dụng. Đốt vía, diệt vía, tan vía
bằng mọi cách, chỉ còn Nguyên hồn để về đến Đại hồn.
NÓI VỀ SỰ NHẬN THỨC
Vốn chúng ta từ Đại hồn xuống đây, tức đã có
sẵn cái Đại giác trong linh hồn gốc, nhưng qua các số kiếp, mà bị che lấp cái
phần đại giác ấy, chứ không ai dốt, vì khi anh trở lại là linh hồn, anh có
thiên nhãn, anh nhớ lại và biết hết mọi thứ, đã có mọi thứ số phận và nghề
nghiệp, tiếng nói trải qua, nhưng anh chưa thoát luân hồi, còn trả nghiệp, nên
anh còn phải đầu thai tiếp mà thôi. Cái biết của hiện kiếp, là cái đã có chứ
không phải là cái chưa có; cái chưa thành vốn là cái đã thành từ lâu. Cái chúng
ta vô minh, đó là cái quên mà thôi. Nên thực mà nói thì, quá trình tu luyện cốt
nhằm làm cho mỗi linh hồn nhận thức được chính mình trong vốn cũ mà thôi. Cho
nên, không nên chê ai dốt, mà cần giúp người khác học tập, tiếp thu để tiến
hóa, trở lại cái bản lai diện mục của chính mình.
NÓI VỀ SỰ NHẪN
Nhẫn, nhẫn nhục rất tốt, nhẫn, không chấp,
bất thành nghiệp quả. Nhẫn nhịn là một tố chất trong luyện đạo. Nhưng với điều
kiện anh biết xả trọc, chứ nhẫn mà cứ hậm hực, hận, cay cú…thì thà không nhẫn,
chấp ào cái rồi tan sân nóng cho xong!
Nhẫn
nhục chịu khổ, nạn…chẳng qua là rèn ý
chí. Nhẫn nhịn cái ác, vô chấp mà cứu nó, ấy là từ bi cao thượng, độ
lượng. Cam chịu cũng là nhẫn, nhưng cam chịu đến độ u mê, lầm
lạc, tùy quá cho cái ác lộng hành thì không đúng lý Thiên Đạo.
Trong Đạo Trời, muôn sự vẫn thường sinh trụ
dị diệt, thành trụ hoại không; cái mới sinh ra thì phá cái cũ, diệt cái cũ;
không có sự chết thì hẳn không có sự sinh, không có sự đấu tranh, thì hẳn không
có sự loại trừ. Thế giới tự nhiên vốn tồn tại qui luật đối ngẫu-cũng là qui
luật đối lập nhau giữa các mặt của cùng một sự vật hiện tượng, đó là hai ngẫu
lực âm dương trong sự tồn tại của muôn vật. Nên có lúc nó nhẫn nhau, chưa diệt
phá nhau được, vì nó chưa đủ độ đủ sức, lúc đó cần nhẫn. Đến khi đủ sức, thì
chính cái đối ngẫu kia nó tự chuyển hóa, khiến cho bên này phải nương chạy
theo, nên lúc đó mà nhẫn, thì tự hại mình, không động không xong. Ấy là lý đạo
vậy. Cho nên, nhẫn nhục về đạo đức, Ta coi đó là một thuộc tính đạo đức tốt.
Nhưng về lý tự nhiên tiến hóa, Ta chỉ coi đó là một trạng thái thường biến mà
thôi. Nó không thể bất biến. Nên, người hiểu đạo, thì khi cần tịnh là tịnh, đến
lúc cần động là phải động, chứ không theo lý, cứ ỳ ra, thì đó chỉ là phường
thúc thủ, không bị loại, thì cũng theo đà lạc hậu, chống tiến hóa, thì dù có
chính cũng thành tà, sáng cũng thành tối là như vậy.
NÓI VỀ THẦN THÔNG
Biết xuất hồn, chưa chắc đã có huệ nhãn, tức
soi bằng mắt thường bằng huệ; có tha tâm thông khi xuất hồn, chưa chắc đã có
túc mạng thông, tức biết quá khứ vị lai; từ huệ nhãn đến thiên nhãn còn cách xa
nhau cả vạn năm ngàn kiếp; có túc mạng thông còn khó hơn nhiều. Nếu dùng thần
thông mà ngạo diễn hại người, thì kiếp sau cũng di hại lâu dài. Có thần thông
mà không có đạo là hỏng, có tài hại người thì gánh nghiệp muôn năm; có ngoại
cảm mà không có tâm linh thì như người không có đầu, chẳng biết gốc tích ra
sao, cứ thế diễn, nguy hại cho người khác. Học huyền thuật mà không có đạo đức,
khác nào tự chặt tay mình mà không biết!
Cho nên, sau nếu kẻ nào dùng thần thông hại
người, sẽ bị hành phạt rất nặng để làm gương cho Nhân loại về sau. Tu học huyền
môn phải hết sức nghiêm túc, cẩn mật, điều nghiên tâm trí, sự học, sự tu, sự
luyện cho nghiêm chính. Tài càng cao, sứ mệnh càng lớn, trách nhiệm độ thế càng
nhiều; tài càng cao, thì danh lợi càng tránh xa, huyễn ngã phải bỏ xa, phải gần
Trời hơn là gần quỉ ma. Học đến đâu, sám hối cái sai, kiểm nghiệm đến đó; thi
từng phần đánh giá hay dở tốt xấu rõ ràng. Kẻ nào vi phạm các luật học, phải
phạt để sửa chữa.
Sau này Nhân loại tương lai có thần thông
nhiều, ai ai cũng sẽ có, mọi thứ gọi là đồng bói, thầy bà, bùa bả, các thủ
thuật huyền học cũ, sách vở tà mị, kinh sách cũ lạc hậu, triết lậu phản động,
sách phản văn hóa, lý thuyết phản Đại Đồng, tất là nguy hiểm không cần cho tiến
hóa Mới, phải bỏ dứt, vì không ai cần nữa. Nhưng sẽ nảy sinh vấn đề quan trọng
là: Do có thần thông, thì ai cũng như ai, rõ mọi việc, đọc được tâm tưởng của
nhau, giả cũng như thật, tốt cũng như xấu. Một là chấp hay không chấp; quan tâm
hay không quan tâm; soi mói rồi đố kỵ hoặc hạ nhục nhau, trêu đùa nhau, xâm
phạm riêng tư cá nhân nhau, hoặc không; soi mói vào các phần kín của nhau và
đời sống tình dục trong gia đình của nhau, xâm phạm thân thể nhau, rồi bêu
riếu, dở trò ma quỉ, hay là không…
Đây là vấn đề hết sức quan trọng, vì nếu có
chiến tranh, đấu tranh trong huyền môn, cõi vô hình thì còn gây tai họa không
kém gì chiến tranh xã hội!
Vậy phải làm cách nào: Luyện Đạo đức hết sức
nghiêm túc; hành phạt cao nhất đối với kẻ biến chuyện thần thông thành chuyện
nhố nhăng, hại người, không tôn trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. Thiên
Hội, Hội đồng Nguyên Lão Tối cao có bộ phận giám sát này cho đến cấp Công xã,
dùng thiên-huệ nhãn quán chiếu, nếu có vụ việc, phải kiểm tra nghiêm, thầy dạy
trong Nội viện phải kiên dạy học trò về điều này. Phải coi điều có thần thông
chỉ là một việc tạm, một phương tiện để tu đạo, thoát Luân hồi. Kẻ nào coi thần
thông là cứu cánh, là sự háo tài để khoe mẽ, hoặc học cốt để thỏa trí trò mò,
có rồi thì láo nháo hại nhau, u mê hơn trong tham sân si, đố kỵ, tranh tài, thì
phải hành phạt tới cùng. Nếu không tiến bộ mà tiếp tục gây họa, thì trên kia,
Ta cùng các quan sẽ cắt mệnh, để đưa nó về, sẽ có cách dạy cho nó hoàn nguyên.
Ngoài ra, theo kinh nghiệm của các thần dân ở
trong lòng Địa cầu, họ có một loại gương kính, hoặc đá, màu sáng bạc ánh hơi
vàng trắng, để làm nhà, nhìn từ ngoài vào không thấy, dùng nhãn chiếu thì khó
nhìn vì lóa, đi xuyên vào thì bị chặn lại bởi tia chiếu trong nhà hoặc trên cao
màu trắng đục, nên không thấy gì. Có như thế mới đảm bảo được sự yên ổn và riêng
tư của mỗi gia đình, tôn trọng cá nhân và nhân phẩm con người. Chúng ta trong
tương lai phải nghiên cứu bằng được phương pháp này!
Ngoài ra, phải kiểm tra nghiêm khắc cá tính
học sinh, rồi mới được cho học các phần cao hơn. Sau này, về rất lâu sau, thì
cả Nhân loại mới có thần thông, còn nay, đến cả vạn năm nữa, vẫn phải áp dụng
các biện pháp cần thiết để bảo vệ sự an lạc thật sự của Nhân loại Mới.
NÓI VỀ HUYỀN MÔN HUYỀN THUẬT
Huyền môn, hay còn gọi cho đúng là các bộ môn
Linh thuật, tức luyện nghệ thuật liên quan đến tâm linh, như bùa chú, thư phù,
phong thủy, phù thủy, đồng cốt, huyền môn như luyện đạo, luyện hồn, yoga cao
cấp nói chung…
Có hai loại chính: Luyện làm tà-vì lợi lộc
công danh ích kỷ, có thể làm ác, thứ hai là luyện pháp cứu nhân độ thế, luyện
đạo để đắc giải thoát…
Huyền Pháp của chúng ta là loại luyện đạo để
đắc pháp, đắc đạo, giải thoát.
Xét về nguyên lý, thì đều dùng năng lượng tâm
linh, ý niệm, nội lực, năng lượng Vũ trụ, cây cỏ, thuốc mà luyện. Thư phù, yểm
đảo, bùa bả, đồng thầy phù thủy…đều liên quan đến việc tâm linh cả, gọi là
Huyền môn-tức là huyền thuật tâm linh.
Ta đã nói nhiều về việc này, cả trong Luật
cũng đã nói kỹ. Nay nói thêm: Loại bỏ tất cả các hệ học về huyền môn cũ, để làm
sạch cõi vô hình và để làm sạch đầu óc tà hắc của Nhân loại, để thống nhất hoàn
toàn Nhân loại, để thực hiện cuộc cách mạng tâm linh và văn hóa Thánh Đức. Vạn
Pháp qui Tôn, Vạn phép qui Thiện. Tôn là Thượng đế, là Tông-gốc. Thiện cũng là
Thượng đế. Đại Thánh Đức là Đại Thiện. Thiên Pháp có tất cả cơ bản các hệ huyền
môn cũ, nhưng đổi mới hoàn bị hơn, để thống nhất tâm linh Nhân loại, để xóa bỏ
tận gốc các pháp cũ gây chia rẽ con người và huyền môn tà vốn là cái gốc rất
nguy hiểm và sâu xa trong chiến tranh tâm linh, làm loạn tâm linh, để dẫn đến
làm loạn xã hội con người.
Tất cả các môn phái huyền môn rồi sẽ cần phải
thu xếp để cải theo Thiên Pháp. Tất cả các tôn giáo để phải gỡ bỏ chính pháp để
đổi theo Chính Pháp Thiên Đạo. Tất cả các đình đền chùa miếu…phải tu sửa dần
dần và thành các Đền thờ Thượng đế. Tất cả các môn phái khí công, Yoga…đều dùng
lý thuyết Thiên Pháp để dạy, sửa cho phù hợp. Các loại bài dạy-kinh nghiệm về
công năng đặc dị siêu đẳng-nhưng cần thiết, chân chính, thì giữ lại, bổ sung
vào Thiên Pháp cấp 6. Phần dạy công năng đặc dị-nhưng không phổ biến. Tiêu bỏ
tất cả các loại bùa, bả thư phù, cách luyện bùa, độc, các hình thức huyền môn
đã có. Nếu chúng ta đã giác ngộ về các Nguyên lý đạo và năng lượng, sẽ hiểu
rằng: Mọi bí mật của các thứ này đã không còn bí mật và đã lạc hậu, trong thời
đại thống nhất tâm linh và khoa học. Đã không là bí mật và với trình độ cao của
loài người về tâm linh, thì các trò đó đã không còn tác dụng và không cần thiết
nữa, khi chúng ta quyết tâm bỏ tha lực tà nghịch, mượn bợ, để chính chúng ta tu
luyện thành siêu đẳng. Cho nên, ai còn bám chấp vào bùa bả, phong thủy…thì vừa
kém hiểu biết và còn là chống Luật Trời mới. Về phong thủy, chỉ cần đặt quả cầu
Thạch anh, có hình Thiên Phù, hoặc một Kim tự tháp trên nóc nhà là hóa giải mọi
hướng xấu, đặt hướng nào cũng được! Không sợ sao chiếu xấu. Mộ phần đặt kim tự
tháp, thì biến thành cái huyệt thông cả trời đất, quan trọng là có dám đặt
không.
Xuất hồn ra, tung ý một cái, mọi bùa bả tất
phải tan; phóng ý xuống, thổi bay ma tà quỉ ám…
Ngoài ra, như chúng ta đã biết, nếu như anh
vay năng lượng, anh phải trả chỗ khác. Anh niệm ý lực vào đó, để phù làm việc
gì đó ngoài anh, sau anh cũng phải gánh, theo luật phản phục và phản lực-chưa
kể đến việc sử dụng các loại ký hiệu đó để làm việc ác, tức dùng hình tư tưởng
bậc cao làm việc ác, tức là đã vay vía và nợ vía, sau linh hồn sẽ mắc vào cái
lưới bị rách các mức năng lượng, hoặc bị bám vào các mức năng lượng tối, thành
ra không siêu thoát được; đặc biệt, khi anh không còn sức, thì chính mức năng
lượng đó quật lại, đó là lý do gánh nghiệp của các vị thầy bà phù thủy, nhiều
vị đến cuối đời lê lết mà không chết nổi, bị âm binh về hành khảo khốn khổ khốn
nạn; vô khối phù thủy chết đi, bị ném xuống hỏa ngục…
Về phong thủy, tức là khoa học sử dụng năng
lượng cho hợp với cơ thể, môi trường nơi ở của con người. Nếu chúng ta khai mở
các cửa sổ thông với Vũ trụ, luyện huyền công siêu đẳng, tự chữa bệnh tật và
xuất hồn lên cao, sửa được cả số mệnh, thì việc chọn hướng nhà, bếp, nơi ngủ,
rồi cả việc dùng tha lực của mồ mả xương cốt tổ tiên sẽ lạc hậu, không còn cần
thiết! Nên không hay ho gì những việc đã cũ này.
Ngày tốt xấu cũng là mức năng lượng của Vũ
trụ tuyến phản phát quang xuống trái đất, dùng huệ nhãn cũng biết được, rồi vì
mức năng lượng chúng ta có thể tự điều chỉnh được về nguyên khí trong nhà, thân
thể…thì chọn ngày giờ cũng sẽ không cần thiết.
Về lý số, như Kinh Dịch, Hà Lạc, Tử Vi, Tứ
Trụ, Thái Ất…một là toàn bàn việc đời sống con người kiểu cũ, thực dụng kiểu
làm quan, phát lộc, tiền tài, tranh đấu; luyện đạo thì ít, cải đời thì không,
mà chỉ bàn các việc ấy cộng với xem nhân sự, biến dịch dự báo…nay chúng ta cao
phép, liếc mắt là biết thiên cơ, việc chi cần nữa, người Thánh Đức thì như
nhau, đạo là đời, cần chi tiền tài quan vọng mưu mô đánh trận, buôn bán…Hai là:
Đây là các sách của thời đại mông muội, con người tính toán theo cách đơn giản
về các sự, không có thần thông, trong một đời sống xã hội cổ xưa; ngay cả các
sao, mức năng lượng Vũ trụ tuyến nay đã khác, thì dùng chúng không còn chính
xác và tính chất khoa học đã lạc hậu. Nên Ta cải biến để sáng tạo nên Lý
Đạo-bàn việc, chiếu việc Nguyên lý, Nguyên năng, năng lượng, tuyệt nhiên không
bàn đến dự báo. Cùng lắm là xem thiên thời, địa thời, nhân thời và thiên
văn-nên Lý Đạo là Khoa học hoàn toàn, Khoa Thiên Văn để tìm hiểu các Qui luật
Vũ trụ, chứ không có chuyện xem bói, dạy việc…
Cho nên, không hay ho gì việc dùng bùa bả,
phong thủy, lý số cũ. Với Thánh Đức, kiên quyết bỏ hẳn!
Nói về bùa, thì Thiên Phù là cái bùa thượng
thặng nhất, vì các tôn giáo và các pháp môn huyền thuật xa xưa, đều vô cùng
trọng, dùng tha lực, kính, sợ Bảy vị Bắc đẩu-chính là Thượng đế. Ta dùng Thiên
Phù là đệ nhất bùa-không ai hơn được nữa. Đến khi Linh hồn chúng ta hòa nhập
với Cha, thành thần tiên tại thế, thì sức mạnh chúng ta như một vị thần thánh,
phật tại thế gian rồi, nên nếu mà nói về huyền thuật, thì người đắc đạo cấp 7
Thiên Pháp, có quyền năng ghê gớm về huyền môn! Hãy nhớ là Ta đã phá nhiều cơn
bão trong các năm 2008-đến 2011, 2012…
Nhưng chúng ta là tất cả, nên phải thống nhất
về một mối, tránh loạn đời loạn thế loạn nhân loạn tâm linh. Cho nên, người
khôn ngoan và hiểu thời thế, hiểu huyền môn, hiểu thiên cơ, thì nên chọn con
đường Thiên Đạo, luyện Thiên Pháp để đắc mọi thứ có thể về huyền thuật, về đạo,
về sức khỏe, về giải thoát, về an lạc…khi đã chọn thế gian này để đầu thai vào
thời Thánh Đức. Và như đã nói, những Linh hồn ấy đã nhìn và chọn Ta-cũng như Thánh Đức mà đầu thai xuống, để chọn và
đón, được cơ hội cao diệu chân chính cuối này của Nhân loại!
Đó là Ta nói thật.
NÓI VỀ HIỀN TÀI
Nhân loại phát triển được đến ngày nay và
muôn năm sau theo chiều tốt, là do các hiền tài cống hiến, chứ cái ác nó chỉ có
phá, kéo thụt lùi lịch sử, tiến hóa. Các hiền tài đều là các Linh căn, Linh hồn
cao xuống thế đầu thai, lâm phàm, trong đó có các vị thầy, giáo chủ, các thiên
tài trong mọi lĩnh vực, theo lệnh Vua Cha mà xuống trần cứu mê, dạy sáng. Ở họ
trước tiên phải có, đó là lòng thương dân; tất nhiên có vô số bồ tát xuống trần
cầm quân, cầm luật, dùng bạo lực…nhưng dù có phải sử dụng bạo lực, thì vẫn
chính nghĩa. Tức cái Lương tâm-Thiên tính nó sáng.
Cho nên, trước hết nếu chọn hiền tài, chọn
người, phải chọn người nhân hậu, sau mới chọn tài. Tuyệt nhiên không chọn kẻ
xảo ngôn. Khổng Tử nói: Xảo ngôn hỹ đức-tức
kẻ xảo ngôn vô đức, Ta cho là đúng. Vì xảo ngôn, cái mồm nó nói điều lắt léo,
gian ngoan, xảo quyệt nó hiện ra đằng mồm cả, ở đó có vu gian, ác hiểm, hồ đồ,
báo cáo láo, nói dối, xiên xẹo…Nếu không có những thứ đó, thì cũng có cái tính
tâm bất nhịn, tâm không thuần, không thể nói là nhân hậu-vì tâm ác, đâu có tốt.
Người Việt Nam, nhất là ở Miền Bắc, có cái
tính nói bóng gió, cạnh khóe, tốt thì là sự khéo léo, tế nhị-nhưng hiếm, còn
lại phát triển thành lời xâm xọc, đâm thọc, móc máy, xiên xẹo…rất thâm độc. Ta
từ bé sinh ra, đã không có cái tính này, nên rất khó chịu khi gặp kẻ nói thế,
hầu như tuyệt nhiên Ta không biết nói lại, có nói thì nghĩ mãi mới ra, trong
khi đa số người Bắc kỳ nói rất dẻo, dù ít học, có khi họ thâm độc kinh khủng,
thay vì tế nhị thâm thúy.
Đây cũng tạo ra cái tính cho người Việt: Nhí
nhảnh, lanh chanh, có khi hồn hậu (
hồn nhiên đôn hậu), nhưng đụng đến lợi ích, là lập tức cạnh khóe, nói xấu nhau,
rồi tranh dành đố kỵ rất mệt mỏi. Người Tàu xấu thâm kiểu mưu mô, người Tây
không có tính đâm thọc thế, nên văn minh xã hội dân chủ hơn; người miền Nam
Việt Nam, do dân tứ chiếng về lập miền đất mới, nên tính cách thông thoáng,
rộng rãi, tính Anh Hai, họ ít nói kiểu xảo sọc, nên vào Nam mà nói xảo
xọc, dân không hiểu! Họ không có tính cách ky bo, tủn mủn, chấp vặt nhiều-Tự
nhiên về tính cách cộng đồng, đã có tính vô chấp, cao đẹp, vô tư trong sáng. Họ
cũng ít có tính cục bộ bản vị kiểu phong kiến, một người làm quan cả họ được
nhờ; một đồng hương, có chết cũng bảo vệ, nâng đỡ đồng hương khác, còn quê khác
thì mặc xác chúng nó! Ta nhắc rằng, Ta không có cái tính xấu đó, thấy ai tốt
thì quí, xấu thì xa, không trọng đồng hương bằng đồng tính, cho nên, vì không
quỵ lụy đồng hương nó làm quan, lên có khi nó ghét, nó đè nén mình! Xưa làm
quan, có đứa đồng hương được chú nó gửi nhờ, nhưng vì nó láo, hư, mà bị Ta hành
cho bật cả gốc. Nên tính Tâm công bình
và Dĩ công vi thượng-tức tất cả vì
việc chung rất quan trọng.
Cho nên, tu luyện, chọn người, trước hết là
tu thuần tâm, thuần tính và tình thương con người, chúng sinh rồi mới Tịnh
tâm-Tịnh tính-Đắc đạo được. Khi còn cái tính xảo quyệt, xảo ngôn, thì tu gì
cũng không đắc! Tâm nó nhảy lung tung, là do mình chưa biết dắt nó vào chuồng
tịnh-không sao, nhưng cái tâm mình mà chưa thuần lương, tâm thiện, thì phải sửa
còn nhiều, tức mồm nói một kiểu ( Trừ bậc đại giác đắc đạo rồi, người ta nói gì
cũng chỉ đúng chữ Một), lòng nghĩ kiểu khác, có kẻ tâm rất dữ, nhưng trông rất
hiền, hoặc trước mặt nói ngọt nịnh xớt, nhưng trong đầu nghĩ kiểu khác. Ta đọc
được nhiều kẻ loại này, nên rất biết họ.
Có trí, cao đạo….mà không có lòng trắc ẩn và
tình thương-tức không đánh thức cái bản vị tôn trọng giá trị con người, chúng
sinh, đắn đo trước một hiện tượng, số phận, sự việc…mà vô tư quá, đau, khổ,
oan, nghiệt…mặc mày, việc tao tao làm, tao Hư Không đây…thì vứt! Nên nhớ, Thiên
Đạo chúng ta xây đời, mà không trọng con người và cuộc đời họ, như Thượng đế
thương chúng ta, thì đắc đạo phỏng ích gì?!
Người hiền, tất phải thương chúng sinh-trong
đó sợ làm kẻ khác đau. Chúng sinh là tất cả những linh hồn có ý thức: Từ con
cá, con tôm, đến các con vật, con người. Nên thấy cảnh giết con vật, để lấy
thịt mà không động tâm-thì tâm không ác, thì cũng không có lòng trắc ẩn-tình
thương. Có tu mà chưa thế, chưa đắc đạo. Dù có lòng buộc phải ăn thịt, do hoàn
cảnh, có khi buộc phải giết con vật để mình sống, nhưng có cách siêu cho nó,
thương nó, thậm chí tìm cách làm nó không đau đớn khi bỏ xác, đó là thiên lương
vậy.
Vốn Thượng đế là thiện và ác, là sinh và
diệt-Vô tự tính-tức không phân biệt: Không phân biệt văn hóa, sang hèn, dân
tộc, quốc gia, địa vị, trí tuệ, giai cấp… Ta cũng có tính đó, nhưng phải có
nhận biết, không thể không nhận biết-nếu không nhận biết được thật hay xấu giả,
ác thiện đúng sai, thì làm sao tu được, tiến được, giống như anh đi trên phương
tiện, mà chẳng biết nó làm bằng gì, đi lối nào, thì rất nguy hiểm.
Hiền tài phải biết thúc đẩy tiến hóa theo
nhận biết Đường Sáng-Tiến lên, lên
cao. Đấu tranh với kẻ ác, hư…là thương nó mới hành nó, coi nó như con cháu
mình, như học sinh của mình, để nó tiến hóa, chứ không diệt nó, trừ trường hợp
đặc biệt. Chỉ có Ta, các Thánh Tam Giáo Tòa, Cha, Mẹ, mới có quyền diệt Linh
hồn-nhưng cực kỳ hạn chế, hy hữu. Chẳng qua Ta đe, cũng giống như Cha dạy có
dọa, không thế không có Luật để giáo hóa là răn đe kẻ xấu để bắt nó phải học.
Thực tế mà nói thì Tam Giáo Tòa đúng là có diệt rất nhiều linh hồn vô đạo,
không thể cải hóa.
Sau này, chúng ta vẫn kiên trì theo phương
pháp: Không sử dụng bạo lực. Thiên Đạo không khuyến khích sử dụng bạo lực, bạo
lực có thể tiến hành do quần chúng bức xúc, nhưng chúng ta không tổ chức và lãnh đạo bạo lực. Chúng ta theo cách: Từ
bi, hỷ xả, dùng đạo dạy đời, dùng Luật Trời để xử trên số phận con người-đó là
Luật cao nhất trong mọi thứ luật. Kiểu gì anh cũng phải bỏ xác. Anh sống đến sợ
làm ác, xấu, không tham lậu vì số kiếp anh sau phải gánh y như những thứ anh
đã làm, đã gây ra-tức biết sợ mà tu, sợ mà không dám làm sai tái phạm….thì mới
gọi là giác ngộ Chân Lý.
Chọn người hiền, là chọn người không tham
lậu. Tính người có khi hiền hậu mà vẫn tham lậu! Từ đó mà sinh ra thói xấu, ác.
Nên phải trừ tham lậu: Muốn hơn người khác về mức thụ hưởng và tư hữu. Nên-từ
Vua đến quan, đến thứ dân, chỉ phân cấp quản lý, còn cấm phân hóa giai cấp,
tầng lớp và mức hưởng thụ vật chất. Dân còn nghèo, vua phải sống như dân; vua ở
cạnh dân, ngày làm cán bộ, tối đến làm dân; cấm đặc quyền đặc lợi, hình thành
cái gọi là tầng lớp trên, tầng lớp quí tộc; làm cán bộ mà hưởng lộc hơn dân, thì
xin mời anh nghỉ! Làm hết thời hạn, về làm dân, lao động bình thường, không
bổng lộc lương lậu gì hết. Ai cũng có thể bình đẳng thi thố làm cán bộ. Làm cán
bộ chẳng qua dấn thân gánh nặng để được công quả giúp dân nhiều hơn mà thôi.
Chỉ khác là: Ai tài đức, sẽ được nhân dân tôn quí, tin phục, Trời đánh giá cao,
Ta chọn làm quan và tiến hóa cấp tốt, nhanh hơn trên Trung-Thượng giới, đó là
phần thưởng cao quí nhất đối với một kiếp tiến hóa.
Dân cũng cứ nhìn vào đó mà đánh giá phẩm chất
con người, để lọc, lựa hiền tài. Dân đưa người bất chính lên, sau nó làm khổ
dân, thì chớ trách Trời không thương! Ta ở trên cao, dòm thấy đứa nào ăn cắp,
ăn chặn, tham ô…tất sẽ cho quan Khâm sai Giám sát xuống bắt, hoặc trị.
Lại nói
thêm: Sau này Ta hiện xuống dạy Hội đồng Tâm
Linh và Thiên Tử thường xuyên. Trong các Nghi lễ đặc biệt như 4 ngày Đại Nguyên
năng ( 4 Tiết thời lớn), ngày Khai Thánh
Đức, ngày Truyền Pháp( 21 tháng 6); các
ngày Vía Cha, Mẹ, Thầy ( 9/1; 9/8; 9/11), nên tổ chức Hội lễ. 4 ngày Đại Nguyên
năng, là ngày Vũ trụ thu về một mối, tức Thông linh Tối cao, nguyên khí về
Trung Phương, thì làm hội, đó mới là Kính Thượng đế. Tổng cộng có 9 Ngày Lễ trọng. Thì Ta và Cha, Mẹ, các Thánh
Bắc Đẩu và các Thánh Khai Đạo, Các Thầy sẽ xuống. Ngự ở các Ghế Thiên Linh. Đạo
Ta là Thiên Linh Đại Đạo-gọi tắt là Thiên Đạo. Vua Cha là Trung Phương Thiên
Linh. Ta là Trung Phương Thiên Tôn. Bố trí các Ghế Thiên Linh như hình Lý Đạo.
Sau, các con hãy quán tưởng Lý Đạo như thế, rồi đưa hình Bắc Đẩu vào Trung
Phương, là hợp Luật, sẽ được trở về nơi đó.
Dưới
Ghế Thiên Linh là các ghế trần, rồi mới đến ghế các vị đại biểu. Chư Thiên
giáng xuống, các vị có mắt huệ đều nhìn thấy hết, sẽ ngồi vào các Ngôi Ghế qui
định.
Việc
thông linh, thông qua Hội đồng Tâm Linh trong Hội đồng Thánh Đức Tối cao của
Giáo Hội.
Ta, các
Thánh Khai Đạo sẽ dạy các việc, không chỉ trong các ngày Lễ trọng. Dạy có thể
mượn xác điển, có thể giáng truyền tâm, có thể chỉ dạy trực tiếp, nhìn là thấy,
nghe là hiểu. Nếu Hội đồng Tâm linh mà chưa đủ tài như thế, thì thay người khác
để đủ tài tiếp thông với bề trên.
Dạy cái gì, phải nghiêm túc ghi chép, luận
bàn mà làm, dân chủ tấu cáo nếu còn thấy chưa thông, cho phát huy dân chủ như
với Chư thiên có xác tại trần. Nhưng kết luận,
Thông linh phải làm, cấm bỏ đó, hoặc
không làm, chống lại, là bất tuân Thiên Lệnh, tội đó không nhỏ.
Các nơi Tự trị nhưng Tuân theo sự Tập trung
Trị thế của Thiên Hội và Ta, Cha,
các Thiên Tử sau cùng các Thánh. Trao quyền tự trị, tức là cho tự quản cao độ,
nhưng không có nghĩa tạo ra một ông vua con, muốn làm gì thì làm, tạo ra Luật
pháp riêng bất tuân Luật chung, bất tuân Thượng lệnh. Một đứa làm chống, sẽ có
loạn, nước đó sẽ chịu tai họa nhiều việc, Ta sẽ bắt đứa đó đi, công khai xét xử
trên Trung giới để làm gương. Kẻ thông hiểu Luật Trời, thì phải coi việc xuống
thế đầu thai là một lần học tập mà thôi, tranh thủ tu luyện, lập công để thoát
Luân hồi, chứ không phải xuống thế để hưởng thụ, tranh dành, chống Ta và làm
khổ chúng sinh. Bỏ xác có mang được những thứ tham, ngạo đó đi không? Các Luật
quốc gia, Đại Khu Tự trị, sau đều phải được thông qua Ký duyệt của Thiên Tử và
Ta xem. Kẻ chống Giáo Triều là chống Thượng đế, Thiên Tử. Giáo Triều sẽ quản lý
toàn bộ tuyệt đối công tác cán bộ-tức tuyển chọn Hiền tài cho Thánh Đức. Giáo triều nắm cả Thế quyền và Đạo quyền.
Dân chọn ( như Trời chọn), có thi tài đức, Thiên Tử chấm ( Thượng đế tại trần
chấm), chọn lọc, bổ nhiệm theo cách Chính. 18 Khu vực Thế giới thay nhau làm
Thiên Tử, mỗi quốc gia được làm 9 năm. Lần lượt làm theo thứ tự 1-2-3-4-5-6-7-8-9-của
các Phương Đạo, để tạo sự cân bằng âm dương, cân đối theo 7 vị Bắc Đẩu-tức hợp
với nguyên khí và thần lực Vũ trụ, tránh loạn thế, loạn nguyên khí. Tất cả hành
Pháp theo Lý Đạo-ấy là nương theo Trời mà hành đạo, gọi là Thuận Thiên hành Đạo. Bậc hiền tài phải hiểu sâu sắc định luật này!
Kết
luận:
Tóm lược là, hiền tài nhất định phải có các đức tính như sau-mới được Ta sử
dụng, trong mọi giai đoạn, đến muôn đời: Phải đủ 9 đức này:
1-
Nhân
hậu.
2-
Tâm
công bình, dĩ công vi thượng.
3-
Thuần
tâm, thuần tính và tình thương con người, chúng sinh.
4-
Không
phân biệt.
5-
Theo
đường Sáng-Tiến lên.
6-
Sợ
làm ác, xấu, không tham lậu.
7-
Thông
linh phải làm.
8-
Tuân
theo sự Tập trung Trị thế.
9-
Thuận
Thiên hành Đạo.
Đây là các Tiêu chí chính, để chọn lọc, lọc
lựa, đánh giá hiền tài. Thiếu một đức, thì không bổ nhiệm. Thực ra toàn bộ 9
điều này, đều nằm chung một Đức là Tính Trung Phương mà thôi!
Đó là 9 điều tính cách của các bậc đắc đạo-đó
là điều đủ. Tuy nhiên, về chọn lọc Nhân tài về sau, còn phải là đắc Thiên Pháp
đến cấp 7-đó là điều cần. Có cái đắc này, sẽ là nền tạo ra 9 điều trên. Tức đắc
Đạo. Dùng thần thông hành Đạo kết hợp dùng thân hành Đạo =gọi là kết hợp Vô vi
và Hữu vi, Vô hình và Hữu hình để hành đạo xây đời. Ví dụ dùng xét Lý Đạo và
Thiên Nhãn soi chiếu người, trời, thiên tượng, để tiến hành công việc, để dùng
cho thuận ý Trời, là cao diệu! Bậc Thiên Tử phải biết được Lý ấy, tránh được
sai lầm không đáng có. Các cấp cán bộ, phải biết mình, biết việc, biết thời thế
mà phụng mạng để phụng sự sứ mệnh của mình và Thiên Tử, phù rập, can ngăn Thiên
Tử, giúp chúng dân tiến hóa. Đó là bậc Quân Tử chính Đạo. Chớ dại mà thấy tượng
Trời bất hoặc mà mưu tính đồ phản, lúc này thuận, đến lúc hết thuận, thì Ta sẽ
dạy cho biết phép thế nào gọi là chống Vua. Kẻ hiểu Luật, phải biết nếu vì sự
ích kỷ của mình mà phá vỡ Luật pháp, thì sẽ đẩy lê dân trăm họ vào đấu tranh
đau thương, được là có thể được một người, mà mất thì mất bao số phận tính
mạng, nên có câu: Một tướng công thành
vạn cốt khô, được một ngôi mà mất bao
nồi xương máu! Nhớ đó, thời nay đã khác, niêm luật khác, thích chơi dao sẽ
có ngày dao đâm vào cổ, nên quay cán mà muôn đời Phù Chính thì nên thân.
Giữ
Đền hưởng Lạc muôn năm
Chớ mong Đền
đổ nảy Làng ác gian
Giữ nền chính, cũng chính là cái đạo đức cao
nhất là thương dân mà thôi; thịnh, trị, dân an, loạn huyễn thì dân khổ, muôn
đời xưa nay đều thế. Nên có chọn, phải chọn, thì phải chọn cách tốt nhất, hay
nhất để làm cho sự chính bền nhất, an nhất, thuận ý Trời nhất. Cốt yếu là lập
nền Thánh Đức của Ta đến muôn đời muôn năm sau-không được đứt. Nếu không, một
là trái đất của các ngươi sẽ rơi vào tay bọn hành tinh bất chính khác, hai là
đại loạn, lại khổ dân. Tất nhiên trong lịch sử quá ư là lâu dài nữa, theo định
lý vũ trụ có thịnh suy bỉ thái là lẽ thường tình, nhưng cơ Trời lý Đất đến nay
là hành Thiên Đạo, thì không thể đổ vứt, mà chỉ có canh cải, đấu tranh để tiến
hóa để đi lên mà thôi.
Cho nên, nếu thấy chính sự đổ nát, suy tàn,
thì bậc anh hùng hào kiệt thương Cha, Ta cùng chúng sinh, phải biết sửa sang cơ
sự, đảo lại ghế ngôi theo đường chính, nhân hậu anh kiệt đàng hoàng, chứ đừng
có dại tạo phản, theo thói giậu đổ bìm leo, thì dù tạm có hay, sau Ta cũng cho
dở. Nói thế không sai!
Nếu thấy thiên tượng bất an, nhân loại loạn
dịch bệnh, đấu nhau vì cơm áo, cũng phải tìm mọi cách an dân, hành Đạo chính
cho nghiêm. Lúc đó chớ có dại mỗi nơi một đứa, tìm cách phá nát cả ra, mong
kiếm chác công danh, khổ dân mà thôi. Đến lúc Nhân loại hợp nhất, phải bị hợp
nhất, không phân biệt, đúng qui luật, mà cứ phá ra, xé lẻ ra, là sai, là bất
chính. Mọi ngôn từ, lý lẽ, dù có thể rất là hay, mị dân đến đâu, thì cũng bất
chính, nếu chống lại điều vĩ đại này. Còn nếu anh không Đại Đồng được, thì lùi
ra, ngồi xuống để cho người khác Đại Đồng. Anh muốn có Đại Đồng, người ta cũng
muốn Đại Đồng, anh xưng, người ta cũng xưng, rồi không hợp, để xừng chống nhau,
thì trước hết anh sai. Nếu anh không sai, thì anh đã tìm cách hòa hợp, nếu hòa
không được, thì anh không đánh lại, nếu anh không đánh lại-tức anh thiện, mà
người ta cứ đánh anh, tức nó bất chính, anh chính, Trời sẽ xét chọn anh chứ
không chọn nó. Vì Thiên Đạo Ta đâu có dạy dùng ác và ngược qui luật tiến hóa là
đắc thoát Luân hồi; nếu có, cái ác bao giờ cũng kình chống điên loạn cái thiện,
với những thủ đoạn thâm độc, tàn ác, đê tiện. Lại nữa, còn sự thông linh, xem
Ta dạy thế nào nữa…
Thiên
Hội của Ta là Bất Tử,
nó là hiện thân của Thiên Đình nơi trần
thế và trên Trung Giới; giả dụ
nó có suy, Ta làm cho nó lại thịnh, nó đổ, Ta sẽ xây lại, chứ sẽ không thể
không có! Nên, Thiên Hội là Bất khả xâm phạm. Có thể thay Thiên Tử, các quốc
trưởng, bỏ phế quốc trưởng, Thiên Tử -nhưng cấm bỏ diệt, phá bỏ Giáo Triều. Kẻ
tuân theo Giáo Triều là Hiền tài, biết Luật. Kẻ không theo, phải xét lại mình
có chính không. Mình đúng mà mình không chính thì cũng như không! Mình sai
nhưng mình chính, thì vẫn còn luân thường nền tảng, tức biết đường tiến hóa. Kẻ
tạo phản, là chống Giáo triều, một là bị truất ngôi vị, thay khác, nếu làm
loạn, cả dân Thánh Đức sẽ đánh bắt, nếu gây họa tợn, Ta sẽ bắt về sớm, trị
nặng. Tài có cao đến mấy, sức mạnh ở trần có to đến bao nhiêu, cũng chỉ bằng
cái hắt hơi tạo bão, tạo họa từ trên cao mà thôi. Ta sẽ bắt hồn nó về, dạy,
chạy đâu cho thoát…
Đôi khi, có thể Ta có thể dùng đám tà, để thử
thách Nhân loại Chính, Hiền tài, để thúc đẩy tiến hóa. Nên phải biết, phải hiểu
cuộc chơi của Thượng đế thế nào…
Cha đã
thử thách, dạy Ta:
Cho ô,
cho lại, cho bầm
Cho
cay, cho nhục, oan lầm đớn đau
Cho
say, cho tỉnh, tình sầu
Bạc đen
đời đọa nhàu nhàu nát tâm
Để rồi đường đến chính chân
Để rồi
bài học xanh mầm thế gian
Học bài
tu đạo là an
Để thành
Thiên Thánh hàng hàng các con
Nay Ta dạy, thử vuông
tròn
Muôn năm
đều thế lên đường về quê…
Thiết nghĩ rằng, đến cả đứa trẻ con thời
Thánh Đức cũng sẽ biết Luật Trời, tự giác hoàn toàn, toàn tâm toàn ý mà tu
luyện, học hành, tiến bộ, nhẫn nhịn, nhẫn nhục, chứ chả dại gì đấu đá bất
chính, tranh dành vô minh, để lãnh quả xấu như người của các thời đại xa xưa.
Đó là Ta dạy về Hiền tài và tu luyện. Đã là
hiền tài, phải đau đáu một mục tiêu là: Làm thế nào để mình và cả xã hội của
mình, thời đại mình thoát khổ? Làm thế nào để cho cả xã hội được no ấm, thậm
chí sung sướng, đủ cả dục lạc và vật lạc, nhưng cũng đắc thoát Luân hồi?...
Khó. Nhưng đó là Chính Đạo của Ta, các con phải làm bằng được, được lâu, lâu
dài, dài cho đến hàng vạn vạn năm…
Nay, nói về Hiền tài như vậy.
Hiền tài muôn đời là Nguyên khí của Thánh
Đức.
NÓI VỀ TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐỒNG
Đại Đồng là một xã hội rộng lớn vĩ đại, thì
cần phải có chủ thuyết thực tế và con người cao đẹp của xã hội đó. Trong lịch
sử Nhân loại, chưa bao giờ có Đại Đồng-có một Chính phủ Toàn cầu sáng đẹp, có triết thuyết xã hội đúng với định
lý Vũ trụ. Nên chúng ta đang vào một thời đại tiến hóa cao nhất, cả về tâm linh
trong lịch sử nhân loại.
Thiên Hội tổ chức ra Liên Hiệp Quốc gia Thánh
Đức. Thiên Hội đứng trên và lãnh đạo Liên Hiệp Quốc gia Thánh Đức ( còn gọi là
Hội đồng Các Địa phận trực thuộc và nằm trong Hội đồng Thánh Đức Tối cao của
Giáo Hội).
Muốn có Đại Đồng, phải có tư tưởng của tất cả
chúng ta đại đồng, đồng lòng.
Chúng ta biết rằng, chúng ta suy nghĩ thì có
hình tư tưởng. Nên quốc gia, dân tộc, khối người, sắc tộc, tôn giáo….nó có hình
tư tưởng, mang ý định, khát vọng, tâm lý dân tộc quốc gia, tính cách bản vị,
lối sống khối người…khối tư tưởng tập thể đó rất ghê gớm, sức mạnh chuyển núi
dời sông. Nếu như các khối người ấy xấu, thì mức độ ảnh hưởng rất xấu, và ngược
lại. Khi chúng ta xuất hồn bay lên cao, sẽ thấy điều này: Các dân tộc có đạo
đức, thì phía trên cao, nước họ, sẽ có khối tư tưởng-vía sáng hơn so với nước
có dân chúng xấu. Thành phố đông dân lao vào tìm kiếm lợi danh, tranh đấu, tham
lậu…thì trên đầu nó, khối hình tư tưởng rất đen…
Ta đã nhiều lần tẩy vía cho trái đất, nước
Việt, Hà Nội, Sài Gòn, nước Trung Quốc, rồi đánh thông nhiều lần các kinh mạch
đất nước, thế giới, thông cả trục Long hoả Trái đất-với mong muốn là làm giảm
tối đa sự khảo đảo và tan vỡ của trái đất, sự mất mát cho loài người trong
2012. Vì mức năng lượng càng xấu, thì khi khai Long càng bị khảo đau dữ.
Cho nên, trách nhiệm của chúng ta trong muôn
năm sau là làm cho tư tưởng trên bầu hành tinh trong sáng, thanh cao. Muốn có
Đại Đồng, thì phải có hình tư tưởng Đại Đồng bao trùm Nhân loại. Mỗi chúng ta
phải không được phân hóa, phân biệt, kỳ thị quốc gia, dân tộc, tín ngưỡng, văn
hóa, thấp cao…Phải bỏ hẳn mọi sự kỳ thị, hằn học dân tộc, chia rẽ sắc tộc, hận
thù dân tộc, hội nhóm, tôn giáo….
Trong tương lai, phải hòa máu các sắc dân để
có giống dân Thánh Đức, đồng thời hòa văn hóa, tăng cường giao lưu qua lại, du
lịch, bao bọc nhau và hòa huyết thống, gien, để có chung bản vị tư tưởng, màu
da, bản tính, trách nhiệm với nhau, thương nhau, thông cảm với nhau; mặc dù có
thể chấp nhận bản sắc, trình độ tiến hóa cao thấp, chung riêng. Về tâm linh
nhất thiết phải hợp nhất tôn giáo, thành hòa đồng tâm linh đến tối đa. Không
cho hình thành các giai cấp, các tầng lớp có tính riêng biệt về mức độ tiến hóa
tư tưởng và hưởng thụ. Không có gì cao hơn, quý hơn là sự tiến hóa về tu luyện,
đó là mức đánh giá cao quý. Tất cả phải chung tiếng nói và trình độ nhận thức
xã hội. Tiếng Việt đa thanh sắc, thanh vị cao sáng, sẽ được chọn để phổ thông
toàn thế giới.
Với các kiểu người, hay dân tộc có tính tham
hiểm, hung hăng, sẽ phải chỉnh trị, tự chỉnh trị ngay, nếu không sẽ có lúc bị
hủy diệt, vì tính đồng thanh và luật Nhân quả. Phải loại bỏ dần các loại gien
ích kỷ, hung hăng, nóng nảy, thích chiến tranh, tranh dành, đấu đá, thích thị
quyền, tham ác, đố kỵ, hiểm độc. Các kiểu người lai giống với các sắc dân ngoài
hành tinh tiêu cực, sẽ phải sửa gien xấu dần, để thích ứng với Ta. Nếu không,
Ta cảnh cáo, sẽ dùng quyền phép hạ triệt loại gien này trong tương lai.
Chúng ta phải hiểu rằng, tu đạo là tu phần vô
vi, linh hồn tiến hóa, cõi vô hình trong bản thể, nhưng sau rồi cũng làm cho
xác thể tiến hóa theo. Xã hội chính là phần xác thể của Đạo, nên tu luyện cá
nhân phải gắn với cả luyện xã hội, xã hội nhân loại chung. Linh hồn mình muốn
sáng, thì mình vừa luyện cho nó sáng, và xác thể mình cũng tiến hóa theo, rồi
nó ngược lại tác động trở lại giúp trợ cho hồn mình tiến thêm, đó cũng như là
xã hội vậy. Vì hồn đâu có ngoài vật, nếu hồn ngoài vật, thì chả bàn làm gì nữa.
Hồn tại tâm, tâm là vật, vật là tâm. Mỗi một tế bào hữu vi là có linh hồn, có
cả vũ trụ trong đó rồi, chia ra, thì các phân tử cấu tạo từ nguyên tử, nguyên
tử tạo lên hồn vía, nếu nguyên tử hồn vía sáng, thì xác thân sáng. Tế bào xã
hội là các cá nhân, linh hồn xã hội là Giáo Triều, Ta và Linh hồn các chúng
sinh có xác tại thế. Nên, linh hồn chúng ta hòa đồng, tốt, thì mới có xã hội
hòa đồng, tốt, cao đẹp. Đó là cái Lý phải xây Thiên Đường có tính Không ở cấp 7
Thiên Pháp đã dạy vậy!
Mâu thuẫn chủ yếu trong thời Đại Đồng sẽ
không phải là mâu thuẫn giai cấp, người bị trị và kẻ cai trị, người giàu và kẻ
nghèo, văn hóa, tôn giáo nữa, mà sẽ là mâu thuẫn giữa tiến hóa và chưa tiến
hóa, là nơi còn lạc hậu với nơi phát triển cao hơn, giữa quốc gia thành viên đã
khá, với nơi còn yếu kém-Nhưng mâu thuẫn đó không phải là mẫu thuẫn đấu tranh,
tranh dành sống còn, mà là cái đấu tranh trong bản thân, để giúp nhau, thúc đẩy
nhau nhanh tiến lên; thậm chí tôn trọng, nhưng cũng phê bình chân chính, để
giúp nhau tiến bộ, như trong một cơ quan, đồng môn, hay trong một gia đình vậy.
Có tư tưởng Đại Đồng, có lý luận, có xã hội,
nhưng còn phải luôn luôn giữ được cái tâm công bình, bình đẳng, thì mới có Đại
Đồng lâu dài được. Giáo Triều, Thiên Tử phải là trung tâm đoàn kết. Các khu vực
phải tôn trọng nhau, cả về bản sắc và trình độ tiến hóa. Không có chuyện kỳ
thị, ấu trĩ tả khuynh, hữu khuynh trong nhận thức tiến hành công việc chung.
Phê bình, tránh chỉ trích, miệt thị, đố kỵ, thiếu chân thành. Phê bình phải cao
thượng; phải cao thượng dân tộc, cao thượng quốc tế. Không vì một câu nói, một
sự không thông nhau, một ý kém, mà quay ra đấu nhau, gây chia rẽ đoàn kết Nhân loại.
Phải hết sức công bình và dân chủ, đoàn kết, hiếu thảo với nhau. Ta đã nghĩ ra
cách điều tiết cân bằng ngôi vị Thiên tử luân phiên, các trực ban Phương đạo và
quốc gia luân phiên, để quốc gia nào, Phương đạo nào cũng được có quyền công
bằng làm Thiên tử, quyền điều hành Thánh Đức, không còn tâm lý dân tộc nọ, quốc
gia nọ lãnh đạo, đì nén, sai khiến, lên lớp, tranh dành, hay khinh miệt dân
tộc, quốc gia khác. Ai cũng có cơ hội ngang nhau, không ai đứng trên ai, cao
hơn. Dân tộc này không phải là Thiên Tử, dân tộc kia không phải là nô lệ. Của
cải, tài nguyên chia đều, chỗ nào có, phải phân chia cho chỗ không có, trao
đổi, quan tâm lo cho nhau, như anh em trong gia đình, sẽ không còn cảnh xâm
lược, bóc lột, tranh dành nhau vì tài nguyên, của cải.
Về sắc tộc và máu huyết, Ta cũng có cách chia
đều, phổ độ, giao hòa…để sau đây mấy ngàn năm, mấy vạn năm, tất cả chung máu
chung huyết thống, khỏi phải lo mất vị, mất dòng, được mất hơn thua. Tất cả là
của Ta, theo Ta, giữ cho Ta là giữ cho toàn nhân loại, tất cả vì một nền Thánh
Đức miên viễn lâu dài, hầu mang lại no ấm bình yên muôn thủa cho các con!
Kẻ hung sùng phá ngang, chống Ý Ta, tất sau
sẽ cho quỉ ma thưởng quả cho đúng đạo! Kẻ làm theo, sẽ được tất cả.
Câu
khẩu hiệu chính của Đại Đồng: “Hãy coi
cả thế giới của bạn”. “ Hãy đối xử với tất cả như chính với bạn”
Hãy coi cả thế giới là của mình, thì không có
tâm lý tranh dành, hơn thua, cao thấp nữa. Đó tạo ra tâm Trung Dung, bao trùm.
Người giác ngộ, hoặc đắc đạo, thì hiểu đó là tâm Không. Coi mọi sự cả thế giới
vốn dĩ như thế, là thế, vòng tròn Mâm ấy, mình chỉ là một đốm nhỏ, nhưng trên
cao, hoặc ở trên đó, nên sinh tâm không phân biệt. Thứ nữa là vì vốn nó là như
thế, ai cũng có phần, có quyền và tâm toàn thể làm cho mình có cái nhìn toàn
triệt, bao trùm, bao dung, để sinh tâm bất tranh.
-Hãy đối xử với tất cả như chính với bạn: Nếu
như coi muôn vật, chúng sinh, con người, người khác, như chính mình, là một
phần của mình, hoặc ít ra họ có lý trí, linh hồn, là một sinh thể, và chúng ta
đã là họ ở cấp tiến hóa đó…thì sẽ sinh tâm công bằng, công bình, tôn trọng tất
cả, là tất cả. Nỗi đau xác thể của con kiến, không khác nỗi đau của mình; nỗi
đau của cái cây khi bị chặt phá, không khác mình. Nhiều câu chuyện sinh động về
rắn vào chùa tu, hiền lành và có đạo, lương tâm…thế thì họ cũng như chúng ta,
nhưng ở cấp tiến hóa thấp, nhưng biết đâu, có linh hồn chúng ta do sai nghiệp,
mà đầu thai, hoặc đọa vào cảnh số thế thì sao? Cho nên, không khinh miệt cả con
chó, con mèo, con gà, nó bẩn, mình có bẩn không? Tôn trọng chúng và người khác
như chính với mình, thì phải làm gì? Còn phân biệt, tâm còn sinh nghiệp, không
chấp vào các thứ đó, mới đắc thoát. Đây là bài học rất quan trọng cho người tu
luyện đạo.
NÓI VỀ SỨC SỐNG TIỀM TÀNG VÀ XÃ
HỘI SINH HỌC
Con người là một sức sống vững bền về sinh
học nhất trong các cảnh tiến hóa.
Sức sống đó biểu hiện ở sinh lý là chính.
Trong đó có tính dục, tính ăn, các loại trao đổi chất.
Nếu con người mà mất đi tính dục, tính ăn,
trao đổi chất, thì thế giới này sụp đổ
ngay! Không còn tình yêu nam nữ, sinh sản, thì Cha chẳng khiến Ta xuống đây làm
gì. Ta đến, trước hết là sứ giả của tình yêu và sức sống muôn đời của Nhân
loại, của sự trường tồn của cấp tiến hóa này. Cấp con người, đó là một cấp, để
các mức tiến hóa thấp hơn đầu thai làm người, rồi cứ thế mà tiến hóa lên cao
hơn, trở về. Thượng đế đã mất công hoàn thiện sáng tạo ra thân mạng chúng ta
đây, hết 800 triệu năm, tức vô cùng lâu. Tất cả là hoàn thiện! Thân xác con
người là một sáng tạo hữu vi tuyệt vời nhất của Tạo Hóa Toàn năng! Trong đó, có
tính dục, tình yêu trai gái, sự sinh sản.
Cái dâm của chúng ta, là cái dâm của Thượng
đế. Nghe nói xưa kia, Mẫu Vương còn hóa thân xuống trần, dạy về giao phối cho
một ông vua ở Trung Quốc.
Chối bỏ, hoặc mất tính dâm–tức là tính dục
bản năng, anh đã là người khác! Mất tính dục, anh đã đánh mất sự tự nhiên cao
nhất của một xác thể, anh một là không bình thường-tức bệnh lý, hai là anh đã
tu đến trình độ cao, làm mất bản năng sinh lý.
Nhưng khổ một nỗi, càng tu khí công cao cấp,
tính dục càng dồi dào, sức sống càng cao, mức năng lượng dục năng và sức khỏe
tình dục càng tốt! Thế thì phải làm thế nào?
Khi mình chưa ngộ, thì bị nhúng trọc dâm; khi
mình tu luyện cao rồi, thì làm chủ nó, chủ động nhúng vào nó mà tâm bất trọc.
Nhưng tâm bất trọc trong sinh hoạt tình dục, thì mất thi vị đi, hóa ra anh chỉ
làm cái công việc giải quyết sinh lý hay sao, nếu thế thì dùng công năng có thể
diệt được, chế được nó. Rất khó. Cho nên, duy trì tính dâm và thực hành tính
dục là tất yếu, nó làm thăng hoa cuộc sống này, nó là tình yêu và sức sống của
Thượng đế-vì Thượng đế không là đàn ông hay đàn bà, không phân giới tính, nhưng
tính trạng thì là nguyên lý hợp nhất, vậy muốn thành Thượng đế, phải biết hợp
nhất âm dương, trong tu luyện Thiên Pháp và trong cuộc sống. Trong cuộc sống,
thì anh phải hợp nhất với vợ anh, để không sinh nghiệp. Nếu như không đáp ứng
được sinh lý, sẽ sinh nghiệp: Đau khổ, khát thèm, ngoại tình, dằn hắt, đè nén,
bệnh tật…Vậy thì bạn phải tiến hành thực hành làm sao cả hai đạt được mức thăng
hoa cao nhất, để hòa khí, hòa tâm, hóa Không tính ngay trong tính dục của
mình-Tức luôn luôn thỏa mái hoàn toàn.
Ta nhắc lại, Thượng đế vốn không sáng tạo
thừa cái gì! Vấn đề là ta có biết cách sử dụng nó, để tiến hóa không. Ta không
bỏ, mà ta tiến hóa, người bỏ, mà người không tiến hóa hơn ta, ấy là cái cao của
ta hơn người! Nói thế đủ hiểu.
Bên Mật Tông có nguyên lý Nam Nữ song tu, rất
hay. Đại Nhật Như Lai chính là Thượng đế, tuy nhiên, không nói hẳn ra, chưa nên
nói rõ ra, vì lúc đó chỉ cần thế, nên tu thì chưa biết phải về đúng đến sao Bắc
Đẩu mới là nhập Trung cung Vũ trụ. Và hiện các khái niệm, cách tu đã rườm rà,
khó hiểu, khó phổ giáo hơn chúng ta. Mạn đà la là hình dung các ngôi Thiên
Thượng, nhưng chưa có đủ Lý đạo như Thiên
Đạo Lý như của chúng ta. Mật tông Tối thượng vốn là pháp phát triển cao của
tinh hoa Blamôn, kết hợp đạo pháp của đạo Phật, nhưng chính Pháp tu tại đời là
của Blamôn. Nhưng chính Blamôn lại không có khế ước xã hội-tức triết học chính
pháp. Tu đến trình độ Mật Tông Tối thượng đã đắc một vị phật tại thế rồi.
Nhưng nay Ta dạy Toàn giác, tất cả, về hết,
thành Thượng đế hết chứ không thành Phật!
Trước hết, chúng ta là cả xã hội sinh học,
không phải là máy móc, không phải là một bộ phận xã hội, mà là toàn thể Nhân
loại với toàn bộ sức sống của nó.
Chúng ta có Chính Pháp và cả Huyền Pháp.
Huyền Pháp đã bao trùm cả Mật tông, Ấn tông, Lão tông, Phật tông, Thiên Chúa
tông rồi. Còn Đạo Pháp tức Thiên Kinh, Trí Kinh… thì hơn mấy anh khoa học,
thiên văn, vật lý, duy vật…Chính Pháp thì hơn mấy anh cộng sản duy vật và mấy
cậu tư bản, cộng với cả mấy anh Nho giáo rồi!
Nay, Ta phân thân làm ba. Ta là
Nho-Ấn-Phật,Việt ( gốc Văn minh Phương đông)…thì có gì là lạ?
Mật, Lão tông tu đạo thì cũng có trừ dâm,
nhưng tu cao có phép chủ động nhập dâm. Thiên chúa tông không luyện đạo. Phật
tông chính gốc thì bỏ dâm. Ấn tu cao, thì cũng bỏ dâm. Mấy anh cộng sản, tư
bản, đều là đời cả, nói là đạo đức, mà dấm dúi cả. Các tôn giáo chả ai tránh
được ăn.
Nhưng đến thời Mạt, Ta thấy Thượng đế trong
họ đều dâm, tham hết, Ta cũng dâm luôn, không mấy người thoát được. Tu sỹ các
tôn giáo nhiễm lậu dâm tham không ít, mà Mật Tông thì dâm từ đầu đến cuối mà
lại không! Nên họ đắc đạo nhiều ngay trong thời Mạt! Trong khi chùa đã biến
thành nơi kinh doanh tâm linh, hưởng lạc, buôn thần bán thánh, cầu lợi danh;
trường dòng đã biến thành ổ điếm cho tu sỹ hành dâm…
Vậy, chúng ta phải biết cái gọi là dâm, vốn
chỉ là một điều kiện cần cho sự sống, và biến nó thành một thành phần tu luyện,
là điều cần-đủ trong tu luyện, là rất quan trọng. Ở đời này, vốn dĩ anh nghĩ nó
là gì, thì nó là thế. Ở phong tục tập quán này, có khi cho dân phóng dâm, vẫn
không là dâm, ở phong tục khác, bế dâm, mà vẫn dâm! Vào chùa, tránh, bỏ dâm,
không thoát luân hồi được, ở đời, không bỏ dâm mà tu thoát luân hồi được, thì
chọn đường nào hay hơn?
Điều quan trọng nhất, là dùng nó chế nó,
không làm nó loạn, không cho nó làm đời loạn, ấy là dĩ độc trị độc vậy; dùng nó
làm chủ nó, thì hay hơn là thả nó, hoặc không dám nhìn thẳng vào nó để dắt nó.
“Dâm pháp” là một bí pháp khó, “Tình yêu
pháp” là nghệ thuật hay, khó nhất
trong cái khó, hay nhất trong cái hay của con người. Tình yêu là một sự huyền
diệu, một Bí nhiệm Tuyệt diệu muôn đời bí mật và mới-mặc dù nó cũng không có gì
cũ bằng. Nó là bản hòa ca âm dương và tình người cao nhất của con người với con
người. Nhưng làm thế nào, mà bắt đầu, đến kết thúc đều không gây đau khổ cho
con người? Tình yêu là cứu cánh, để thăng hóa thành tình yêu Nhân loại và khát
vọng đem hạnh phúc cho tất cả mọi người để an lạc, hạnh phúc viên mãn, rồi trở
về với Cha?
Có một phương thuốc chữa cho vấn đề đó là:
Phải coi người mình yêu, người đối ngẫu là một đối tượng của Thượng đế cho
mình, để mình luyện Đạo!
Con vật nó có dâm tính cao, thú tính mạnh,
nhưng chúng ta khác mỗi nó là dùng dâm, thú ấy biến ngay thành Đan, Đạo, Tiến
hóa, tức chúng ta hơn con vật mỗi cái Lý trí thôi. Không có Lý trí, sao có Đạo
được. Chúng ta vốn dĩ đi từ thú tính lên thiên tính. Bỏ được thú tính, lên
thiên tính là phạm vi con người.
Chúng ta phải học từ cái sơ khởi đến cái vi
diệu của nó, mới có thể đắc đạo được, còn cứ nhếu nháo, không hiểu rõ bản chất
của nó, hoặc đứng ngoài nó, khinh bỉ nó, tức đứng ngoài cuộc sống này=ở nghĩa
toàn thể, sợ nó, thì không thể nào đưa nó hoàn Không được!
Giáo dục giới tính trước kia chủ yếu giới
thiệu về tính dục, tình dục…nhưng mấy ai đã dạy phương pháp chế dục, định dục,
diệt dục, biến hóa dục, thăng hoa thành Không dục? Giáo dục, tu luyện tốt, thì
xã hội không còn cảnh đau khổ vì dục, không tranh cướp vợ chồng, không loạn
luân, dâm đĩ bán thân, không có tu sỹ khát dâm phá luật, không cảnh đời khốn
nạn vì dâm dục.
Sau này cấm phương pháp Nam Nữ song tu ở
ngoài hôn nhân. Mà Vợ Chồng tính dục
song tu là cứu cánh cho cả xã hội Thánh Đức! Người học xong Thiên Pháp cao
cấp, mới được lấy vợ chồng. Dùng thần thông, thân tâm chế phục nhau, thì làm gì
còn đau khổ.
Về cái
ăn sinh học:
Phải no đủ, đừng nói chuyện đói mà luyện đắc Đạo! Vì sao? Tu đến cao tột, mới
làm chủ được cơn đói, mà cứ đói thì tu cao đến mấy cũng mệt! Phật Tổ đã từng bỏ
lối khổ tu để đi vào Trung đạo, mới đắc đạo. Rồi Pháp môn của Phật cho tu sỹ đi
xin ăn, tức dùng tha lực ngoại của chúng sinh để tu luyện nội thân, tức sau đã
hóa thành cầu lợi, có nói, nếu ai cúng dường cho tu sỹ nhiều, sau có nhiều lợi
ích, căn đức, công quả…nhưng còn người cho thứ đó, họ đâu có tu?...Sau này các
cảnh chùa nhiễm lậu như thế nào, chắc các vị đã biết-chúng sinh đến cúng để cầu
lợi, vì họ chỉ biết cúng nhiều cho tăng chúng, cho Phật, thì họ được giàu sang,
lên quan, kể cả buôn lậu may mắn! Có đứa đi chiến trận giết người xong, về đi
chùa xa nghiệp, rồi lại đi giết người tiếp.
Các tôn giáo khác đã đều thành đấu đá nhau,
chiến tranh, thù nghịch, được mấy chỗ làm từ thiện, làm theo Thượng đế. Ta thấy
tôn giáo nào cũng giàu cả, rất giàu, tức phải có tiền mới có thể duy trì đạo
phát triển, tồn tại. Thế là cái ăn rất quan trọng.
Bây giờ, không phân tôn giáo nữa, mà cả xã
hội thành trường tu, nhà nhà thành chùa, người người là tu sỹ, thì cái ăn vẫn
là quan trọng, chớ khinh thường sự ăn. Điều quan trọng của chúng ta là làm cho
ai ai cũng no ấm, nhưng no ấm ai ai cũng như nhau, để thế giới không còn tranh
đấu, tranh dành, chiến tranh, bạo lực…
Khó nhất là từ sự ăn mà sinh ra danh, lợi,
tranh; kẻ không ăn được nữa, thì chả tham cái gì, có khi vội đem cho hết cũng
không kịp!
Để duy trì xã hội sinh học, trước hết về mặt
xã hội, cũng như gia đình, phải lo đến cái ăn cho mình và cho người-không thể
khác. Muốn có, phải có thiết chế kinh tế
tốt, phương pháp lao động tốt, phương tiện lao động tốt, biện pháp phân chia
tốt, biện pháp giữ gìn, chế biến tốt, cuối cùng là sự thưởng lãm cái ăn tốt.
Làm Thiên tử, hay bất cứ một công dân nào,
cũng phải chú ý điều này, để cho Thánh Đức an vui, an và lạc.
Đó là Ta nói về hai khía cạnh quan trọng nhất
của sinh học tính-không bỏ được của con người là tính dục và tính ăn-mang tính
xã hội sâu sắc; cả hai điều này có thể đưa xã hội, cá nhân đến an lạc, hoặc là
đau khổ. Hai cái này chưa dứt điểm thỏa mãn hoàn Không, tức cân bằng, thì không
thể có xã hội tính Không và con người toàn thể thoát Luân hồi được.
Không biết ác, tà, dâm sai, tham, khổ…thì sao
biết thiện, chính, thanh cao, tha nhân và an lạc. Nên chấp vào cảnh nào, thì ở
cảnh đó mà tu thoát cái đó, chứ đâu có tìm chạy đâu xa.
NÓI VỀ TU XÓA NGHIỆP
Các sao là nơi
tích lũy năng lượng của thể Vía và linh hồn.
Các sao vốn dĩ
là các cửa hút và nạp năng lượng, đồng
thời là nơi lưu giữ năng lượng, giữ trấn năng lượng, tạo năng lượng, đó cũng là
nơi lưu trữ các trường thể vía của chúng ta-Khi chúng ta bỏ xác, thì linh hồn
thu về trục dọc trung tâm, thu các trường thông tin của các sao về trung tâm,
sau đó, linh hồn thoát ra khỏi cơ thể, mang theo toàn bộ cái gọi là thông
tin-trường vía của linh hồn. Như vậy, các sao chính là nơi tụ khí bẩn-vía bẩn
của linh hồn. Các sao này có quyền năng quản trị cả khí-vía-tư tưởng…nó dồn cả
vào nơi nó quản trị. Đồng thời, các sao này chính là các ông thần lực của bản
mệnh mình, các ông này quản năng lực cơ thể, Linh hồn. Mức thông tin vía nơi đó
thế nào, thì ông thần lực ở đó hành xử y như thế. Nên vía xấu, hư, đầy ác trọc,
tranh tham, dục năng mạnh…thì ông này hành ngược thúc đẩy các nội tạng thần kinh ở đó thúc cái thân vật lý của chúng
ta đòi hỏi chúng ta. Hồn sao vía vậy, vía sao xác vậy, xác sao nghiệp vậy…nên,
cái kho này nó sạch, thì chúng ta cũng đỡ khổ về những gì ông ấy đòi hỏi.
Vậy, xét về cái
Kho này, thì các sao chính là các Kho lưu trữ tài liệu-trường thông tin của
Vía, sau đó, Linh hồn theo mức tiến hóa đã có của đời, lưu trữ trong Vía, để
gánh nghiệp tương ứng với cái đã có. Mang theo cái gì, thì sau đầu thai theo
mức năng lượng tương ứng với Vía hồn ấy, rồi theo Luật đồng thanh tương ứng,
đồng khí tương cầu, Linh hồn mang theo vía ấy chui vào thai nhi, để Hưởng mức
năng lượng Vũ trụ tương ứng, cái thai ấy nó ra hình dạng theo chính cái linh
hồn nó có, đến khi nó sinh ra đúng vào cái ngày giờ chuẩn bị cho nó theo mức
năng lượng nó đã có, để nó sống và trả cái nghiệp đã có của nó trong quá khứ và
hiện tại.
Như vậy, như Ta
đã nói về bản chất thoát Luân hồi, trước tiên là vấn đề anh sống tạo vía tốt,
tức đừng để các thể thông tin xấu độc lưu trữ vào các Luân xa. Đồng thời, kiên
quyết kiên trì diệt vía xấu chủ động bằng cách khai mở các sao, đặc biệt là
Thiên Long, thường xuyên tẩy lọc chúng,
tống khí-vía bẩn đi, thường xuyên xuất
vía hồn lên cao, để cho vía xấu rơi rụng, không bám vào được hồn gốc, rồi
thường xuyên xả trọc, đảo lộn làm sạch thể vía, dùng khí lực mà xóa tan vía
xấu, dùng năng lượng trên cao và năng lượng nội thân dội, xoáy, triệt diệt vía
xấu; ăn chay, sống thanh sạch, nghĩ tốt, làm lành, sống nhẫn nhịn, không nóng,
không ác, lại luôn từ bi, tâm lành thiện, sống tha nhân, để đồng thanh với Vía
Trời, để không tạo ra thể vía xấu và hình tư tưởng đeo bám mình sau này. Cách
tĩnh tâm-thiền tịnh, hoặc đem tâm ý về Không, thực ra là cách hay nhất để chúng
ta không phóng ý bừa bãi vào không gian, không làm tạo ra các hình tư tưởng
xấu, cả đẹp; thực ra không cần, trong một cuộc tiến hóa của Vũ trụ. Trong Không
gian, càng tịnh càng tốt! Đồng thời có thể ban tặng năng lượng tình thương-cũng
chính là vía tốt-hình tư tưởng tốt cho người khác, kể cả kẻ thù của mình-vì nếu
anh gửi cho họ một trường thông tin xấu, hình tư tưởng xấu, nó sẽ bám vào vía
của anh kia, sau đó anh ta cũng không được tốt, vía sẽ bám theo anh ta, sau đó
theo luật tương cầu, linh hồn sau đó sẽ tìm anh mà bắt cùng trả nghiệp, ví dụ
thù nhau kiếp trước, kiếp này đầu thai có khi làm người thân để trả nợ nhau…Đó
là họ bắt trả, ngoài ra, mình phóng xuất ý xấu, có hình tư tưởng bẩn trong
không gian, sau này hình đó bám theo dội ngược trở lại trong hiện kiếp, trong
kiếp sau, trong mức năng lượng của mình, bám lại vào vía mình, để mình gánh
nghiệp, đó là Quả Báo là như thế!
Các tôn giáo xưa,
bí hiểm về việc này, nay Ta nói rõ hơn. Đồng thời nhận thức này sẽ chứng minh
sáng, luận giải bằng khoa học cao cấp trong Lý Đạo.
Cho nên, chúng ta
phải diệt vía xấu như đổ nước bẩn, bùn đất ra khỏi các sao trên bản mệnh, đồng
thời phải biết đi gom sạch những thứ hình tư tưởng bẩn rác của mình trong không
gian, gom rồi diệt đốt chúng; đồng thời phải tạo ra các hình tư tưởng cao đẹp,
đại đồng.
Những điều Ta nói
đây, đã nói trong các phần lý luận rồi, nay nói rõ hơn. Và Ta đã thực hành hoàn
hảo các điều đó. Sau, các vị hãy cứ theo lời Ta nói, tất đắc đạo hoàn nguyên.
NÓI VỀ CÔNG NĂNG ĐẶC DỊ
Các công năng đặc dị như sau, sẽ được Nhân
loại tiến hóa hàng triệu năm nữa đạt được, tu luyện thành, theo các phương
pháp, thời gian tiến hóa khác nhau. Loài người sẽ đạt được một cách tất
yếu-nhưng không phải là thời điểm bây giờ. Sẽ là hàng trăm, vạn, triệu năm nữa.
Lúc đó Pháp của Ta không cần đến các cấp Thiên Pháp thấp nữa, nhưng Nhân loại
vẫn phải học cách Xuất hồn, về đến Cha và càng cần Cha, kính trọng Cha, Mẹ,
Thầy hơn.
1-Phân thân, di chuyển cả thân hình vật lý
trên không.
2-Khinh công, đi là là trên mặt đất.
3-Biến không: Dị hình, hoặc biến hình, đây là
thủ thuật, nhưng sau này tu luyện siêu đẳng, thì thân vật lý sẽ thay các bon
bằng silicon-như trong Thông điệp của các
Đấng Sáng tạo đã cho biết.
4-Thành thân silicon, bất tử, bất hoại-tức
thành Kim thân vật lý.
5-Thân thể ánh sáng phát quang rực rỡ.
6-Thân thể đi xuyên tường, đất, phép độn thổ,
độn nước.
7-Có thể thở không cần phổi.
8-Lấy vật chất và vật thể từ trong không khí,
theo phép: Vật tại tâm, tâm là vật, tán tụ chất bằng tâm ý. Dùng thực khí hoặc
dùng các chất tinh khí, ít dùng thực phẩm, không còn dùng thực phẩm các bon, ví
dụ như thịt động vật.
9-Khiển vật bằng tâm.
10-Tu luyện đến trình độ phát công chữa bệnh,
phát nhiệt, phát điện, chủ động điều chỉnh thời tiết, các cơn bão, phá mưa, làm
nắng.
11-Làm các trung tâm tiếp nhận năng lượng
trên cao, để lấy năng lượng; đồng thời lấy đó làm phương tiện tu luyện, giống
như Kim Tự Tháp.
12-Tuổi thọ thân thể vật lý có thể đến hàng
trăm, thậm chí hàng ngàn, vạn tuổi-tự lựa chọn sinh tử, có thể thân thể trong
suốt. Lựa chọn tiến hóa. Lựa chọn gien, tạo ra các giống người siêu đẳng mà
không cần chọn lọc tự nhiên, đó là một giống dân thần tiên, không có gien tính
tham lam, hung hăng, cực thông minh, thân thể tuyệt đẹp.
Chú ý: Nhân giống dân Việt
rất thông minh, đĩnh ngộ, tính cách hồn nhiên, với giống dân Ấn Độ là chính,
tạo thành giống mũi cao, da hơi nâu, tóc đen, thẳng, mượt, mắt đen, sáng và
khuôn mắt đẹp, khuôn mặt đẹp, cao khoảng 2 m trở lại, không nên cao quá; dần
xóa đi lông tóc râu rậm, nên dùng ít lông tóc; có râu đẹp, nhưng không quá rậm;
không nên lùn; các chỉ số cơ học, sinh học cơ thể sẽ tính toán tiến hóa hợp lý
với các gian đoạn phát triển lâu dài, hàng triệu năm nữa.
Cấm nhân tạo người, sinh trong ống nghiệm,
nhân bản vô tính, sản xuất các bộ phận thân thể, cấm lai người với vật, thực
vật, tạo ra giống khác như trên; không cho lai tạo với người ngoài hành
tinh-trừ khi họ đến xin gien. Cấm không cho người ngoài hành tinh đóng căn cứ
trên trái đất, trừ trường hợp được Thượng đế và Thiên Hội cho phép. Cho các
thầy-cũng là anh em của chúng ta trong lòng trái đất lên trên mặt đất sinh
sống, đó là quyền của họ và chúng ta phải học họ tất cả mọi thứ cần thiết, đây
chính là các vị thầy trực tiếp của chúng ta, cùng các vị thầy khác đến từ các
hành tinh thân thiện ngoài trái đất. Cho họ ở một nơi riêng, là cõi của họ và
chúng ta có thể đến đó thăm hỏi, học hỏi…
Mấy phần chính như thế về thân mạng con người
và tương lai như thế.
Ngoài ra, về mặt sáng tạo, sản xuất, thì như
dự báo trong Nhân Kinh, loài người sẽ là siêu siêu đẳng, không thể nói được hết
và dự báo hết các sự tiến hóa, sáng tạo kỳ diệu vĩ đại trong tương lai, khi mà
con người đã là các Đấng Sáng tạo nhỏ nơi trần gian này! Nhưng, vẫn phải có hai
lựa chọn: Thoát Luân hồi, để hết nghiệp trần, lên cao, trở về, tiến hóa theo
cách khác; hai là ở lại trần gian, thành thần tiên tại thế, đến hàng trăm, ngàn
tuổi, biến thành các Linh Nhân cao cấp, là thần thánh nhỏ, nhưng muốn thành CÁC
VÌ SAO TƯƠNG LAI, thì anh phải trở về đã! Lúc đó, cho phép các lựa chọn này.
Nhân đây Ta cấm chuyện các Linh hồn sắp mãn
xác già, tìm cách chui vào các thai nhi, để trở lại tiếp làm người, mà không
trở về xin phép Ta, Cha, Mẹ, các Tổng hồn. Không được phép trốn kiểu đó, vì
thương tiếc trần gian mà chui ở lại, không chịu về! Phải về đã, rồi tính chuyện
đầu thai lại hay không. Nếu cố tình chống lời này, sẽ bị khảo đọa. Ta không
chấp nhận cách Di hồn chuyển xác như cách cũ Mật Tông Tây tạng đã làm. Nếu ai
cũng như thế, thì loạn trần ngay, vì các Linh căn xuống, Cha, Mẹ đã chuẩn bị
thân mạng số nghiệp cho họ. Nay tuyệt nhiên không được dùng phép trục hồn
chuyển xác như cũ-trừ những trường hợp đặc biệt cũng là do Cha Mẹ chuẩn bị.
Thân mạng Ta cũng là như thế, khi xác thể này bắt đầu sinh ra trong mấy phút,
Ta mới giáng xuống, theo sự quyền lệnh chuẩn bị của Cha, lúc đó xác này sinh ra
không có khóc, chết lặng đi, đến khi Ta xuống, nó mới khóc chào đời. Nhưng xác
này được sản xuất, là chuẩn bị sẵn cho Ta xuống, không có người thứ hai, tại
nơi đó, vào ngày giờ đó, như tiên tri đó.
-Tương lai là vĩ đại, con người là thần
tiên-nhưng càng tiến hóa cao tột, thì càng kính trọng Cha, Mẹ; dù anh có tiến
hóa đến bao nhiêu, mà chống Tạo hóa, chống qui luật, thì không thể nói là đắc
đạo được. Có giỏi như Tổng lãnh Thiên thần Luxiphơ, kiêu ngạo chống ý Cha, còn
bị ném vào hỏa ngục, đọa; tài giỏi thần thông như dân Átlantic, mà kiêu ngạo
chống ý Cha, khinh thường Thượng đế, bị diệt cả dân và lục địa. Đó là bài học
lâu dài cho loài người tương lai. Nhớ lời Ta nói! Nghe lời Ta nói, trái đất này
sẽ không bị thảm diệt trong tương lai, cùng lắm vào các ngươn tiến hóa, Ta sẽ
xin Cha đổi số cho mà thôi, có sinh thì có đau, có đẻ thì có mừng vui, đó là
tất yếu, nhưng Ta hứa với các con Ta là: Nghe lới Thượng đế đến muôn năm, thì
muôn năm các con đều an lành, an lạc, tiến hóa siêu siêu đẳng, bằng không thì
ngược lại. Nhưng vì là tất yếu sẽ tiến lên, cho nên kẻ nào chống Luật, tất bị
xử thôi, chớ trách Ta không dạy, không báo trước.
Thiên Pháp là vĩ đại, cao, nhưng chưa là hoàn
thiện, vì trong tương lai, Ta không cho lập môn pháp mới nữa, có rồi, sẽ bổ cứu
thêm; chưa có, các Thánh sẽ bổ sung thêm, Ta sẽ dạy thêm, nhưng cũng không quá
hơn các dự báo công năng này. Vào lúc nào cần, đủ điều kiện, thì dạy thêm, cứ
như thế, hàng trăm vạn, triệu năm nữa…
Nhưng đây là chương trình Chuẩn, Nền, cố
định; các bài có thể chia ra mà dạy một cách khác nhau, nhưng về cách học thì giữ như thế. Đến cấp cao, sinh
muôn hình vạn trạng cách luyện của cá nhân, nhưng chớ để nó tán ra thành các
pháp môn, mà tùy căn cơ, trình độ từng người, mà tu luyện cho đến thành mục
đích tối cao. Ta nay còn tại thế, mà xác luyện theo vô số cách rồi! Vì ý ở đâu,
khí lực ở đó, thì chả còn cách nào cụ thể nữa, nó là Phi thường cách rồi. Đến
Phi thường cách, thì sách của Ta thừa, không cần nữa. Đó là Đại học rồi. Nhưng
muốn có Đại học, thì phải học từ lớp 1. Sau này Nhân loại thần thông, nhìn đã
thông thấy nội tạng, kinh mạch, từ bé đã biết xuất hồn, có thiên nhãn, nhưng
vẫn phải dạy họ về Đạo, Lý, rồi tu luyện thân tâm chứ, dạy cách trở về chứ, do
đó, muôn đời, đã là con người sống trên trái đất này, thì vẫn cần học Thiên
Pháp. Không học Thiên Pháp, sẽ có khi hỗn loạn loài người, khinh thường Thượng
đế, chết bỏ xác không chịu về Thiên Thượng, thì như thế anh dù có thần thông,
nhưng đâu có đắc đạo hoàn nguyên.
Cho nên, nhiệm vụ của loài người xuống thế
đầu thai trong Thánh Đức là thoát Luân hồi, đây là nhiệm vụ Tối cao!